SKKN Một số biện pháp giáo dục kỷ năng sống cho trẻ 3-4 tuổi tại trường Mầm non công lập xã Vĩnh Hà

docx 40 trang honganh1 15/05/2023 5260
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp giáo dục kỷ năng sống cho trẻ 3-4 tuổi tại trường Mầm non công lập xã Vĩnh Hà", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_bien_phap_giao_duc_ky_nang_song_cho_tre_3_4_tuoi.docx

Nội dung text: SKKN Một số biện pháp giáo dục kỷ năng sống cho trẻ 3-4 tuổi tại trường Mầm non công lập xã Vĩnh Hà

  1. 1.TÊN ĐỀ TÀI:” Một số biện pháp giáo dục kỷ năng sống cho trẻ 3 - 4 tuổi tại Trường Mầm Non Công Lập Xã Vĩnh Hà". 2.PHẦN MỞ ĐẦU 2.1. Lý do chọn vấn đề nghiên cứu: a. Về lý luận: Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi nói riêng thì đây là một giai đoạn hết sức quan trọng “ khủng hoảng tuổi lên ba” giai đoạn này trẻ có những thay đổi lớn về tâm sinh lý, trẻ bướng bỉnh hơn, nghịch ngợm hơn nhưng trẻ cũng tò mò hơn thích tự làm và thích thể hiện bản thân hơn. Tại Việt Nam thì việc đưa giáo dục kỹ năng sống vào lứa tuổi mầm non cũng được chú trọng vào các năm gần đây. Trong thời đại này ngoài kiến thức, mỗi chúng ta và nhất là trẻ em rất cần trang bị những kỹ năng sống để ngày càng hoàn thiện bản thân sao cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Vì vậy, việc Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa kỹ năng sống lồng ghép vào chương trình dạy học là rất quan trọng và cần thiết, mặc dù việc này không phải là dễ đối với lứa tuổi mầm non. Trẻ cần phải được trang bị những kỹ năng để sống chung và ứng phó xử lý những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống hàng ngày. Kỹ năng sống là gì? : Có nhiều quan điểm khác nhau về kỹ năng sống: - Theo quan niệm của tổ chức văn hóa, khoa học giáo dục của Liên Hiệp Quốc (UNESCO): Kỹ năng sống là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày. - Theo quan niệm của tổ chức y tế thế giới (WHO): Kỹ năng sống là những kỹ năng mang tính tâm lý xã hội và kỹ năng về giao tiếp được vận dụng trong các tình huống hằng ngày để tương tác có hiệu quả với người khác và giải quyết có hiệu quả những vấn đề, những tình huống của cuộc sống hàng ngày. Nói tóm lại, nói tới kỹ năng sống không đơn giản chỉ ở nhận thức mà cao hơn nữa con người còn biết tích cực vận dụng những kiến thức đã học vào xử lý các tình huống thực tiễn có hiệu quả, qua đó giúp con người sống vui vẻ, có ý nghĩa hơn. Giáo dục kỹ năng sống theo tác giả Nguyễn Thanh Bình giáo dục KNS là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực trên cơ sở giúp người học có cả kiến thức, giá trị, thái độ và các kỹ năng thích hợp. Giáo dục KNS có mục tiêu chính là làm thay đổi hành vi của người học từ thói quen thụ động, có thể gây rủi ro, mang lại hậu quả tiêu cực, chuyển thành những hành vi mang tính xây dựng, tích cực và có hiệu quả để nâng cao chất lượng cuộc sống của cá nhân và góp phần phát triển bền vững cho xã hội. 1
  2. b. Về thực tiễn: Bậc học mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, đặt nền móng đầu tiên cho việc giáo dục con người mới trong tương lai. Trường mầm non là môi trường thuật lợi nhất cho việc hình thành và phát triển toàn diện về nhân cách ban đầu, cũng như phát triển các lĩnh vực giáo dục kĩ năng của trẻ. Muốn chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ tốt, phát triển cân đối, hài hoà về mọi mặt thì nhà giáo dục phải tác động đến trẻ từ nhiều phía, bằng nhiều hình thức, thủ thuật, phương pháp khác nhau như tổ chức và thực hiện tốt, đầy đủ ba nội dung lớn đó là chăm sóc trẻ khoẻ mạnh, tổ chức các hoạt động giáo dục linh hoạt, sáng tạo và tổ chức các chế độ, thời điểm trong ngày của trẻ như hoạt động góc, hoạt động đi dạo, đi thăm,hoạt động các ngày hội, ngày lễ Xác định được kĩ năng sống đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển toàn diện của trẻ như vậy. Nên tôi rất băn khoăn, làm thế nào để lựa chọn được nội dung, phương pháp phát triển kỹ năng sống cho trẻ đúng và phù hợp với lứa tuổi, rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ có nề nếp thói quen, kỹ năng giao tiếp trong mọi hoạt động cũng như thế giới xung quanh trẻ. Giáo dục mầm non giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Vì vậy việc giáo dục trẻ là trách nhiệm không phải của riêng ai mà là của toàn xã hội, trong đó gia đình và nhà trường là hai nhân tố quan trọng nhất.Bởi lẽ trẻ mầm non rất nhạy cảm với những tác động xấu của môi trường xung quanh. Cho nên môi trường sống của trẻ hôm nay phụ thuộc nhiều vào người lớn, gia đình, trường lớp và cộng đồng xã hội, việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non đang trở thành một nhiệm vụ quan trọng đối với ngành học mầm non, là con đường, là tiền đề cơ bản hình thành và phát triển toàn diện nhân cách ban đầu và tạo nền móng cho sự phát triển về thể chất, tâm lý và chuẩn bị đầy đủ về tâm thế cho trẻ ở các bậc học tiếp theo. Đặc biệt ở trường mầm non Công Lập Xã Vĩnh Hà chúng tôi các cháu 50% là dân tộc Vân Kiều mà đa số các trẻ Vân Kiều đều nhút nhát, chưa mạnh dạn tự tin, trẻ thường xuyên giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ, ý thức bỏ rác vào sọt rác, đi vệ sinh đúng nơi qui định, các kỷ năng giao lưu giao tiếp với người khác của trẻ còn nhiều hạn chế. Còn trẻ dân tộc kinh thì được bố mẹ cưng chiều tất cả các việc dù nhỏ như xúc cơm ăn, mặc áo quần, dọn bàn, vứt hộp sữa, lau mặt, rót nước hay nhiều việc nhỏ khác đều được bố mẹ phục vụ nên trẻ trở nên ỉ lại không có kỷ năng tự phục vụ bản thân. Trên thực tế lớp 3-4 tuổi cụm Trung Tâm do tôi chủ nhiệm một số trẻ chưa mạnh dạn tự tin, chưa có khả năng thói quen tự phục vụ, trong khi tham gia các hoạt động trẻ chưa biết đoàn kết hợp tác với bạn. Vậy làm thế nào để giáo dục cho 2
  3. trẻ kỹ năng sống có hiệu quả và phát triển một cách toàn diện về mọi mặt, đó là câu hỏi luôn đặt ra cho tôi .Từ những trăn trở suy nghĩ trên tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 3- 4 tuổi tại trường mầm non công lập xã Vĩnh Hà” để nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng kỹ năng sống cho trẻ nói riêng và chất lượng giáo dục trẻ toàn diện nói chung 2.2.Mục đích nghiên cứu - Góp phần hình thành và phát triển toàn diện về nhân cách ban đầu và năm lĩnh vực giáo dục. - Rèn luyện các kiến thức kỹ năng cho trẻ nề nếp thói quen trong sinh hoạt hàng ngày. - Mở rộng và làm giàu vốn từ, kỹ năng giao tiếp ngôn ngữ trong sáng mạch lạc cho trẻ - Tạo cho trẻ có các mối quan hệ gần gũi, đầm ấm thân thiện với môi trường xung quanh. Nhằm tìm ra một số biện pháp, hình thức để giúp trẻ làm quen với một số kỹ năng sống, nhằm phát huy nâng cao tính tích cực, năng động, sáng tạo, mạnh dạn, tự tin trong mọi hoạt động và mọi hoàn cảnh của trẻ, nhằm củng cố, rèn luyện cho trẻ những kỹ năng sống cơ bản thông qua các hoạt động. Ban đầu cho trẻ làm quen một cách nhẹ nhàng, trẻ được thoải mái, tự nhiên hoạt động không gò bó để việc làm quen với một số kỹ năng sống của trẻ đạt được kết quả tốt nhất. 2.3.Đối tượng nghiên cứu và khảo sát thực nghiệm: Trẻ 3 – 4 tuổi cụm trung tâm Trường Mầm Non Công Lập xã Vĩnh Hà 2.4.Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Giáo viên lựa chọn, sưu tầm các nguồn tài liệu có nội dung liên quan đến đề tài nghiên cứu, để vận dụng và đưa ra các biện pháp tổ chức thực hiện cho phù hợp - Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Nhằm nắm bắt đặc điểm, tình hình của trẻ, giáo viên đi điều tra từng hộ gia đình, gặp gỡ, trao đổi với phụ huynh, ghi chép đầy đủ các thông tin về trẻ. - Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: Sau khi khảo sát tôi đã thiết lập biểu bảng điền đầy đủ và xử lý số liệu phù hợp với nội dung đề tài nghiên cứu. - Phương pháp sử dụng tình huống: Đưa ra các tình huống cụ thể, kích thích trẻ tìm tòi suy nghĩ giải quyết vấn đề đặt ra. - Phương pháp trò chơi: Sử dụng các loại trò chơi để kích thích trẻ tự nguyện, hoạt động tích cực. 3
  4. - Phương pháp thực hành trải nghiệm: Tổ chức cho trẻ hành động thao tác trực tiếp đồ vật, đồ chơi, sử dụng các yếu tố chơi, các trò chơi đơn giản thích hợp để khích lệ trẻ hoạt động. - Phương pháp nêu gương- đánh giá: + Nêu gương là hình thức khen đúng lúc, đúng chỗ, biểu dương là chính. + Đánh giá thể hiện thái độ đồng tình hoặc chưa đồng tình trước việc làm, hành vi, cử chỉ,từ đó đưa ra nhận xét, tự nhận xét, tình huống , hoàn cảnh cụ thể. 2.5.Phạm vi nghiên cứu: - Tôi áp dụng nghiên cứu và thực hiện đề tài này bắt đầu từ tháng 9/2020 cho đến nay. 3.NỘI DUNG: 3.1. Những nội dung lý luận: Trước sự phát triển mạnh mẽ không ngừng của nền kinh tế hiện nay, các bậc phụ huynh có rất ít thời gian để quan tâm đến con cái, chính vì thế mà trẻ hay thu mình và rất ít khi giao tiếp với thế giới bên ngoài. Điều này ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến sự phát triển nhận thức, tình cảm của trẻ, đặc biệt là hầu hết trẻ không có vốn kỹ năng sống. Vì vậy, việc rèn kỹ năng sống cho trẻ là điều rất cần thiết giúp trẻ khám phá thế giới một cách có định hướng, trẻ biết quý trọng bản thân, nuôi dưỡng những giá trị sống nền tảng và hình thành những kỹ năng sống tích cực giúp trẻ cân bằng cuộc sống. Từ đó xây dựng cho trẻ những kỹ năng sống hòa nhập với thế giới xung quanh. Ở mỗi lứa tuổi trẻ cần có những sự tác động khác nhau đến kỹ năng sống của trẻ. Kỹ năng sống của trẻ bao gồm rất nhiều kỹ năng: Kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng vệ sinh, kỹ năng thích nghi với môi trường sống, kỹ năng hợp tác chia sẻ. Dạy kỹ năng sống cho trẻ là truyền cho trẻ những kinh nghiệm sống của người lớn, giúp trẻ có những kỹ năng thích ứng với những khó khăn trong cuộc sống. Trẻ biết vận dụng những kiến thức của mình để giải quyết những khó khăn trong cuộc sống. Muốn vậy, người lớn phải tạo cho trẻ có môi trường để trải nghiệm, thực hành. Nhưng trên thực tế, trong xã hội hiện nay các gia đình thường chú trọng đến việc học kiến thức của trẻ mà không chú ý đến phát triển các kỹ năng cho trẻ. Luôn bao bọc, nuông chiều, làm hộ trẻ khiến trẻ ỷ lại, ích kỷ, không quan tâm đến người khác và các kỹ năng trong cuộc sống rất hạn chế nên khó khăn cho trẻ trong việc xử lý tình huống bất ngờ xảy ra. Để giúp trẻ có kỷ năng sống không có nghĩa là dạy trẻ những gì cao siêu vượt quá tầm hiểu biết của trẻ mà chúng ta giúp trẻ trãi nghiệm những hoạt động ngày của một xã hội thu nhỏ như: Làm việc, sinh hoạt, vận động, giao tiếp trong cuộc sống, xoạy quanh bản thân, gia đình, môi trường xã hội và những người lạ không 4
  5. quen biết. Để giúp trẻ sống hài hòa, thích nghi và thoải mái trong đời sống xã hội, biết cách đối phó với những tình huống bất ngờ phát sinh Trẻ cần được học và rèn luyện ngay từ nhỏ, từ những bản năng tự nhiên như việc học ăn, học nói, đi, đứng, ngũ, nghĩ đến việc học để có kiến thức và giao tiếp ứng xử trung thực, khôn ngoan, lịch sự với mọi người. 3.2.Thực trạng vấn đề nghiên cứu: Trường nằm trong Xã Vĩnh Hà là một xã đặc biệt khó khăn của Huyện Vĩnh Linh trong đó dân tộc chiếm chủ yếu trên 50%. Tập quán sinh hoạt còn tương đối lạc hậu. Nhân dân sinh sống chủ yếu là nghề nông nghiệp, làm rẫy. Là xã đặc biệt khó khăn trên địa bàn Huyện nên thu nhập bình quân trên đầu người còn thấp. Hộ đói nghèo vẫn còn cao địa bàn cư trú nằm rải rác, đa số dân tộc Vân Kiều trong xã còn sử dụng tiếng mẹ đẻ quá nhiều , cơ sở hạ tầng tại các thôn bản tuy đã được quan tâm đầu tư song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu sinh hoạt của người dân. *Đặc điểm tình hình lớp học - Tổng số học sinh: 24 cháu - 50% học sinh là người dân tộc Vân Kiều - Tổng số giáo viên: 2 cô - Trình độ chuyên môn: Đại học 2 - Lớp thực hiện theo chương trình giáo dục mầm non. - Lớp có tương đối đầy đủ các đồ dùng đồ chơi, thiết bị dạy học phục vụ cho công tác giáo dục a. Thuận lợi: Bản thân là giáo viên có trình độ chuyên môn trên chuẩn với năng lực chuyên môn vững vàng, nhiệt tình yêu nghề mến trẻ. Có khả năng tiếp thu những kinh nghiệm và vận dụng vào giảng dạy một cách linh hoạt, có nhiều ý tưởng, luôn mong muốn có những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường đó là một thuận lợi lớn trong việc thực hiện đề tài. Lớp học rộng rãi, thoáng mát đảm bảo cho công tác chăm sóc giáo dục trẻ, lớp học có ti vi, lớp được trang bị các tài liệu, sách truyện để làm tài liệu dạy. Bản thân đã ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy. Trẻ trong lớp sĩ số học sinh đảm bảo phù hợp với điều kiện của lớp và nhà trường, tỉ lệ chuyên cần của trẻ cao. Trường được xây dựng ở gần khu dân cư thuận tiện cho việc đi học của học sinh. Trường lớp khang trang, sạch sẽ có đầy đủ đồ dùng, trang thiết bị cho trẻ hoạt động trong lớp và ngoài trời. *Về cơ sở vật chất, trang thiết bị: 5