Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học các dấu hiệu chia hết cho 4

doc 3 trang sangkien 05/09/2022 10700
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học các dấu hiệu chia hết cho 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nang_cao_hieu_qua_day.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học các dấu hiệu chia hết cho 4

  1. Phần A- Đặt vấn đề I/- Phần mở đầu: Bâch Tiểu học là bậc nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Chất lượng giáo dục đào tạo phụ thuộc rất nhiều vào kết quả giáo dục Tiểu học. Mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần vào sự hình thành và phát triển nhân cách con người mới. Đặc biệt trong giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và mục tieu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh hiện nay thì việc thực hiện mục tiêu: "Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lưc, bồi dưỡng nhân tài" đang đặt ra cho ngnàh giáo dục nói chung và giáo dục tiểu học nói riêng. Trách nhiệm nặng nề nhưng cũng rất vẻ vang. Trong các môn học ở Tiểu học, cùng với Tiếng việt, môn Toán chiếm một vị trí vô vùng quan trọng, các kiến thức, kỹ năng môn Toán có rất nhiều ứng dụng trong thực tế cuộc sống cho người lao động, là cơ sở để học tập các môn học khác ở Tiểu học và để học sinh học tốt môn Toán ở các bậc học tiếp theo. Mặt khác, trọng dạy học Toán ở Tiểu học, đặc biệt là đối với học sinh lớp 4 chương trình 2000 thì dạy "Các dấu hiệu chia hết" cho học sinh là một mạch kiến thức cũng không kém phần quan trọng, giúp học sinh có kỹ năng năng nhận biết một số bất kỳ nào đó có chia hết cho 2, 3, 5, 9 hay không? Dựa vào các dấu hiệu cần thiết không cần thực hiện các phép tính. Đây là cả một vấn đề mới về nội dung và phương pháp dạy học của giáo viên và học sinh. Đối với học sinh, các em chỉ được học các dấu hiệu chia hết trên cơ sở phát hiện, giới thiệu và tự phát biểu trong sách giáo khoa. Học sinh tự giác thông báo kết quả đó và làm theo chứ không được chứng minh. Vì vậy, các em chưa có kỹc năng vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo vào việc giải bài toán đòi hỏi sự tư duy nhanh nhạy và không cần phải tính toán - dạy - học tốt về các dấu hiệu chi hết 2, 5, 3, 9, nó không chỉ giúp các em có khả năng nhận biết một số có chia hết cho 2 (hoặc 5, 3, 9 hay không) mà nó cần giúp các em vận dụng vào việc về phân số ở các chương trình sau. nó cần làm cơ sở để giúp các em học tốt môn Toán ở lớp trên. Với những lý do và ý thức được tầm quan trọng của việc dạy các dấu hiệu ở bậc Tiểu học nên tôi đã chọn đề tài này. II/- Thực trạng của vấn đề nghiên cứu: 1- Thưc trạng việc giảng dạy của giáo viên: Thực tế trong năm học vừa qua khi dạy phần dấu hiệu chia hết giáo viên chúng tôi thường sử dụng phương pháp chung đó là: Phương pháp gợi mở, vấn đáp, giáo viên đi từ bảng chia để dẫn dắt học sinh rút ra kết luận về dấu hiệu chia hết bằng các câu hỏi gợi ý và những phương pháp luyện tập cũng cố kiến thức. Thực tế này cho thấy: - Giáo viên chưa nắm vững nội dung, điều kiện "Cần và đủ" của các dấu hiệu chí hết. - Giấo viên chưa vận dụng linh hoạt phương pháp dạy học mới bằng hình thức giao việc dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên để học sinh tự tìm ra kiến thức.
  2. - Giáo viên chưa thực sự chú trọng trong rèn luyện nâng cao việc giải toán có liên quan đến dấu hiệu chia hết trong phụ đạo ngoài giờ hoặc làm thêm các bài tập nâng cao khi các em đã học xong chương trình này. 2- Thực trạng về việc tiếp thu của học sinh: Thu thập các bài kiểm tra của học sinh lớp 4 sau khi đã học xong phần dấu hiệu chia hết cho 2, 3, 5, 9. Câu 1: Cho các số: 78, 253, 2352, 7650, 64260, 87651, 16578, 94875, 17624. Em hãy chỉ ra. a- Số nào chia hết cho 2? b- Số nào chia hết cho 3? c- Số nào chia hết cho 5? d- Số nào chia hết cho 9? Câu 2: Giải thích vì sao số 25875 chia hết cho 5, 9, 3 mà không chi hết cho 2. Câu 3: Viết vào dấu * ở số 86* một chữ số để được: a- Số chia hết cho 2 và 5 b- Số chia hết cho 3 và 9 c- Số chia hết cho 2, 3 và 9 (Viết tất cả các số có thể viết được). Câu 4: Tìm số có hai chữ số sao cho, khi lấy số đó chia cho 2 thì dư 1, chia cho 3 thì dư 2, chia cho 5 thì dư 4. Biểu điểm chấm: Câ Câu 1: (3 điểm) Câu 2: (2 điểm) Câu 3: (3 điểm) Câu 4: (2 điểm). Khảo sát về các dấu hiệu chia hết: (Năm học 2005-2006). Tổng số học sinh là: 28 em Số dự Giỏi Khá Trung bình Yếu Tổng khảo số SLượng Tỷ lệ SLượng Tỷ lệ SLượng Tỷ lệ SLượng Tỷ lệ sát 28 28 2 7,2 2 7,2 10 36 14 49,6 Căn cứ vào bài làm và bảng thống kê điểm cho thấy: - Đa số học sinh làm tốt "Câu 1"nghĩa là các em vận dụng được dấu hiệu chia hết "Điều kiện đủ" chiếm tỷ lệ 90%. - Về lý luận giải thích "Câu 2" về dấu hiệu chia hết đạt 66,6%. - Vận dụng dấu hiệu chia hết "Câu 3" 88,3%. - Vận dụng dấu hiệu chia hết để giải các bài toán nâng cao "Câu 4" đạt tỷ lệ 33,3%. Điều đó chứng tỏ rằng, họch sinh tiếp thu kiến thức về dấu hiệu chia hết không khó khăn, ngay cả học sinh trung bình, yếu. Song khả năng khả năng vận dụng dấu hiệu chia hết để lập luận, giải thích vấn đề trong bài tập còn yếu. Nhất là các em còn lúng túng khi vận dụng để giải các bài tập nâng cao (ngay cả học
  3. sinh khá, giỏi) và các em chưa biết vận dụng linh hoạt các dấu hiệu chia hết bằng cách phân thành các nhóm để dễ nhận biết hơn. Phần B Giải quyết vấn đề: I/- Cơ sở lý lụân: 1- Cấu tạo nội dung của phần lý thuyết về các dâu hiệu chia hết ở SGK Toán 4. Trong chương trình lớp 4, người ta chỉ dạy cho học sinh điều kiện "Đủ" của các dấu hiệu chia hết cho 2 (hoặc 5, 9 ,3) mà không dạy điều kiện "Cần". Vì thế, ghi nhớ được phát biẻu thành lời trong SGK là những mệnh đề có dạng "Điều kiện đủ" và diễn đạt bằng ngôn ngữ và hiẻu đối với học sinh Tiểu học. Nội dung kiến thức về dấu hiệu chia hết cho 2, 5, 9, 3 được cung cấp cho học sinh lớp 4 theo trình tự sau: a- Dấu hiệu chia hết cho 2 và 5. Hai dấu hiệu này giống nhau ở yếu tố, dùng để xác định một số có chia hết cho 2 hoặc 5 hay không, đều căn cứ vào chữ số tận cùng của nó. Vì vậy, chúng ta được dạy liền nhau và tách riêng thành 2 tiết. b- Dấu hiệu chia hết cho 3 và dấu hiệu chia hết cho 9. Hai dấu hiệu này có cùng yếu tố dùng để xác định một số có cùng chia hết cho 3 hoặc 9 hay không. Do 9 là bội của 3 (thay mệnh đề a: => a: 3 là đúng) nên trong chương trình đã dạy dấu hiệu chia hết cho 9 trứơc rồi mới dạy dấu hiệu chi hết cho 3 sau. 2- Các dấu hiệu chia hết được dạy cho học sinh lớp 4: a- Dấu hiệu chia hết cho 2. Các số tận cùng bằng 0, 2, 4, 6, 8 đều chia hết cho 2. Hay a0 = 2, 4, 6, 8 => a : 2 b- Dấu hiệu chia hết cho 5. Các số tận cùng bằng không hoặc 5 thì chia hết cho 5. Hay a0 = 0; 5 => a; 5. c- Dấu hiệu chia hết cho 9. Các số có tổng các chữ số chia hết cho 9 thì chia hết cho 9. Hay (an + a1 + a0) : 9 => a : 9. d- Dấu hiệu chia hết cho 3. Các số có tổng các chữ số chia hết cho 3 thì chia hết cho 3. Hay (an + a1 + a0) : => a :3. 3- Yêu cầu đạt trong dạy học về dấu hiệu chia hết ở sách giáo khoa Toán 4: * Yêu cầu 1: Từ bảng chia hết cho 2 (hoặc 5, 9, 3) để học sinh nêu ra các số bị chia hết hết cho 2 (hoặc 5, 9, 3) từ các điểm của các số đó. * Yêu cầu 2: Đưa ra nhiều ví dụ về các số có cùng đặc điểm với số bị chia vừa nêu để khẳng định điều nhận xét vừa rút ra ở trên (về đặc điểm các số chia hết cho 2) hoặc 3, 5, 9. Dùng thuật ngữ (lấy bất kỳ số nào có thì số đó chia hết cho ).