Sáng kiến kinh nghiệm Giúp các em học sinh Lớp 3 giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giúp các em học sinh Lớp 3 giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_giup_cac_em_hoc_sinh_lop_3_giai_tot_ba.doc
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Giúp các em học sinh Lớp 3 giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị
- MỤC LỤC Nội dung Trang Phần I: đặt vấn đề 2 I. Lời mở đầu 2 II. Thực trạng của việc giải Toán liên quan đến rút về đơn v ị 3 Phần II: Giải quyết vấn đề 6 I. Các giải pháp thực hiện 6 II. Các biện pháp giúp học sinh làm tốt bài toán liên quan đến rút 6 về đơn v ị III. Tiến hành thực nghiệm 14 Phần III: Kết luận 15 1. Kết quả đạt được 15 2. Bài học kinh nghiệm 15 1
- PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ I. LỜI MỞ ĐẦU: Bậc Tiểu học là bậc học quan trọng, là nền tảng của bậc học phổ thông, là cơ sở ban đầu để hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. Chương trình ở bậc Tiểu học bao gồm nhiều môn học, trong các môn học đó môn Toán chiếm một vị trí quan trọng. Nó chiếm nhiều thời gian, các kiến thức của môn Toán được ứng dụng rất thiết thực trong đời sống hàng ngày của con người. Mặt khác, môn Toán còn có quan hệ mật thiết với các môn học khác, nếu học sinh học tốt môn Toán thì sẽ tác động tích cực đến việc học tốt các môn học khác. Trọng tâm của môn Toán trong chương trình Tiểu học mới hiện nay là: “Đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực học tập của học sinh”, trong đó đa dạng hoá các hình thức dạy học là một yêu cầu quan trọng nhằm mục đích phát huy hết khả năng chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh trong quá trình học. Toán học là môn học thuận lợi cho việc rèn luyện tư duy của học sinh. Môn Toán là môn thể thao của trí tuệ. Vì vậy cần phải phát triển kịp thời và bồi dưỡng những học sinh có năng lực toán để phát triển tư duy, sáng tạo của các em, tạo cơ sở ban đầu cho việc bồi dưỡng và phát triển nhân tài. Học toán và giải toán là một trong các biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ ở học sinh. Giải toán yêu cầu học sinh phải tư duy một cách tích cực, huy động tích hợp các kiến thức vào tình huống thích hợp. Học sinh phải biết phát hiện dữ kiện, tìm điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh, nhất là đối với những bài toán có nội dung khó hơn, yêu cầu cao hơn, Đối với học sinh thì giải toán là một việc làm, là hoạt động chủ yếu của hoạt động Toán học. Thực tế dạy học hiện nay trong một lớp có nhiều đối tượng học sinh khác nhau, do đó cần yêu cầu “ phổ cập” đối với diện học sinh đại trà là phải nắm chắc chương trình sách giáo khoa theo quy định, nắm được kĩ năng cơ bản của giải bài 2
- tập toán, xác định được yêu cầu cần được nâng cao đối với học sinh khá, giỏi là giải được một bài toán có nội dung phức tạp hơn, đòi hỏi trình độ tư duy cao hơn. Như chúng ta đã biết, căn cứ vào sự phát triển tâm, sinh lí của học sinh Tiểu học mà cấu trúc nội dung môn Toán rất phù hợp với từng giai đoạn phát triển của học sinh và đặc biệt là ở lớp 3. Các em được học các kiến thức, kĩ năng ở thời điểm kết thúc của giai đoạn 1, chuẩn bị học tiếp giai đoạn sau, cho nên các em phải nắm chắc tất cả các cơ sở ban đầu về giải toán nói riêng, tất cả các kĩ năng khác nói chung. Đặc biệt, ở lớp 3 sang học kì II, các em bắt đầu được làm quen với các dạng toán hợp cơ bản, trong đó có dạng ‘ Bài toán liên quan đến rút về đơn vị”. Dạng toán này có rất nhiều ứng dụng trong thực tế, nó đòi hỏi các em phải có kĩ năng giải toán tốt, kĩ năng ứng dụng thực tế hàng ngày trong cuộc sống. Qua ba năm liền trực tiếp giảng dạy ở lớp 3, đối với môn Toán và cụ thể là phần giải toán “Bài toán liên quan đến rút về đơn vị”, Tôi thấy các em nắm được kĩ năng giải toán như là một văn bản lí thuyết, còn áp dụng vào thực hành giải toán thì hiệu quả chưa cao. Đó là điều mà tôi băn khoăn, trăn trở bâý lâu nay. Chính vì thế, Tôi đã chọn vấn đề “ Giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị” để nghiên cứu nhằm tìm ra biện pháp giúp các em học sinh lớp 3 giải tốt dạng bài toán liên quan đến rút về đơn vị, Tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “ Giúp các em học sinh lớp 3 giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị” để nghiên cứu. II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC GIẢI TOÁN LIÊN QUAN ĐẾN RÚT VỀ ĐƠN VỊ CHO HỌC SINH LỚP 3. Trong chương trình môn toán ở lớp 3, giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị giữ một vai trò quan trọng vì đây là một dạng toán điển hình thuộc dạng giải toán có lời văn ( vì dạng toán này có hai kiểu bài khác nhau), chính vì thế, thông qua việc giải toán các em thấy được nhiều khái niệm toán học như: các số, các phép tính, đều gắn liền với thực tiễn hoạt động của học sinh. a) Thuận lợi: 3
- - Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm và có hướng chỉ đạo đúng đắn trong việc dạy học. - Đa số các em thích học toán. - Học sinh có đầy đủ phương tiện để học tập. b) Khó khăn: - Môn Toán là một môn học khó, học sinh dễ chán. - Trình độ nhận thức của học sinh không đồng đều - Một số học sinh còn chậm, kĩ năng tóm tắt bài toán còn hạn chế, chưa có thói quen đọc và tìm hiểu kĩ bài toán. - Kĩ năng tính nhẩm với các phép tính còn hạn chế. Một số em tiếp thu bài một cách thụ động, ghi nhớ bài còn máy móc nên hay chóng quên các dạng bài toán, vì thế phải có phương pháp khắc sâu kiến thức. c) Tình trạng của học sinh lớp 3A năm học 2009 – 2010. Tổng số lớp tôi chủ nhiệm là 17 em, trong đó nam: 7 em; nữ 10 em. Đa số các em là con em dân tộc thiểu số và là con em gia đình nông dân. Một số em có hoàn cảnh khó khăn, bố mẹ đi làm ăn xa, các em phải ở nhà với ông bà cho nên việc đôn đốc, quan tâm đến các em học bài là chưa có. - Một số gia đình quan tâm đến con cái nhưng họ không có phương pháp hướng dẫn các em làm bài, đặc biệt là bài toán có lời văn chính vì thế các em không hiểu được bản chất của bài toán., làm bài còn mơ hồ. - Một số học sinh đọc bài chưa thạo, còn ấp úng cho nên khi đọc bài toán các em không hiểu được bài toán cho biết gì? Bài toán yêu cầu gì? . - Khi làm một bài toán giải các em không đọc kĩ đề bài và giải xong không kiểm tra lại bài; - Ở lớp 3 có dạng Bài bài toán liên quan đến rút về đơn vị, trong dạng này gồm có hai kiểu bài, chính vì thế khi làm bài các em hay nhầm lẫn. + Kiểu bài 1: Giải theo 2 bước: 4
- - Bước 1: Tìm giá trị 1 phần ( thực hiện phép tính chia) - Bước 2: Tìm giá trị nhiều phần đó ( thực hiên phép nhân). + Kiểu bài 2: Giải theo 2 bước: - Bước 1: Tìm giá trị một phần ( thực hiện phép chia). - Bước 2: Tìm số phần (thực hiện phép chia.) • Tuy cả hai kiểu bài đều thực hiện theo hai bước nhưng học sinh hay nhầm lẫn giữa bước 2 của cả hai kiểu bài. - Trong năm học 2009 – 2010, sau khi dạy xong cả hai dạng toán này tôi đã tiến hành kiểm tra bằng cách ra hai bài toán ( làm bài trong 15 phút) để kiểm tra chất lượng làm bài của các em học sinh lớp Tôi. Bài toán 1: Tổ trưởng một đội sản xuất đã nhận được 75 000 nghìn đồng tiền thưởng và chia đều cho 3 người trong tổ. Hỏi hai người thì nhận bao nhiêu tiền thưởng? Bài toán 2: Có 40 kg đường đựng đều trong 8 túi. Hỏi 15kg đường đựng trong mấy túi như thế? Sau khi chấm bài, tôi thấy kết quả các em làm được như sau: - Một số em làm đúng cả hai kiểu bài. - Một số em làm nhầm từ bước 2 ở kiểu bài 1 sang bước 2 ở kiểu bài 2 và ngược lại. - Một số em làm sai cả hai bài. * Cụ thể kết quả chất lượng kiểm tra 2 bài toán trên đối với lớp 3A trường Tiểu học Điền Lư II năm học như sau: Tổng Điểm 9 - 10 Điểm 7 – 8 Điểm 5 - 6 Điểm dưới 5 số HS SL TL SL TL SL TL SL TL 17 2 11,8 % 3 17,6% 3 17,6% 9 53% Nguyên nhân có kết quả như trên là do phần lớn các em còn chủ quan trong làm bài, một số em chưa nắm vững phương pháp giải toán có lời văn và đặc biệt là 5
- dạng toán liên quan đến rút về đơn vị. Mặt khác các em chưa được củng cố vững về hai kiểu bài trong dạng toán này nên việc làm bài sai của học sinh là không tránh khỏi. Một nguyên nhân quan trọng nữa là khi làm bài xong học sinh không thử lại. PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN. 1. Điều tra nắm bắt tình hình và phân loại chất lượng học sinh trong lớp - Từ khi nhận lớp tôi đã tìm hiểu hoàn cảnh gia đình và tính cách cũng như học lực của từng học sinh để nắm bắt được 4 đối tượng học sinh trong lớp mình phụ trách: Giỏi, Khá, Trung bình, Yếu. Đặc biệt là học xong phần nào Tôi đều kiểm tra để đánh giá phân loại chất lượng học sinh , từ đó có biện pháp kèm cặp thêm cho học sinh yếu kém. 2. Xác định một số sai lầm mà học sinh mắc phải khi giải Bài toán có liên quan đến rút về đơn vị. 3. Vận dụng phương pháp dạy học phù hợp với tâm sinh lí và trình độ học sinh lớp mình phụ trách. 4. Tạo cơ hội để học sinh phát huy tối đa, tích cực trong học toán. II. CÁC BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LÀM TỐT BÀI TOÁN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN RÚT VỀ ĐƠN VỊ 1. Giúp học sinh nắm chắc phương pháp chung để giải các bài toán có lời văn. Muốn cho học sinh giải tốt “Bài toán liên quan đến rút về đơn vị”, trước tiên tôi đã hướng dẫn các em nắm chắc được những bước cần thực hiện khi giải tất cả các dạng toán. Mỗi bài toán các em có làm tốt được hay không đều phụ thuộc vào phương pháp giải toán được vận dụng ở mỗi bước giải bài toán đó. Cho nên tôi đã hướng dẫn học sinh nắm chắc các bước giải toán như sau: - Bước 1: Đọc kĩ đề toán - Bước 2: Tóm tắt bài toán 6
- - Bước 3: Tự phân tích đề toán - Bước 4: Viết bài giải - Bước 5: Kiểm tra lời giả và đánh giá cách giải. Cụ thể yêu cầu đối với học sinh như sau: a) Đọc kĩ đề bài: Trong một bài toán yêu cầu ít nhất 3 em học sinh đọc để giúp các em nắm được ba yếu tố cơ bản. Những “ dữ kiện” là những cái đã cho, đã biết trong đầu bài, “ những ẩn số” là những cái chưa biết và cần tìm những “điều kiện” là quan hệ giữa các dữ kiện và ẩn số. - Cần tập cho học sinh có thói quen và từng bước có kĩ năng suy nghĩ trên các yếu tố cơ bản của bài toán, phân biệt và xác định được các dữ kiện và điều kiện cần thiết liên quan đến cái cần tìm, gạt bỏ các tình tiết không liên quan đến câu hỏi, phát hiện được các dữ kiện và điều kiện không tường minh để diễn đạt một cách rõ ràng hơn. Tránh thói quen xấu là vừa đọc xong đã làm ngay. b) Tóm tắt đề toán: Sau khi học sinh đọc kĩ đề toán, tôi đã hướng dẫn cho các em tóm tắt bài toán theo các cách sau: - Cách 1: Tóm tắt bằng chữ. - Cách 2: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng. - Cách 3: Tóm tắt bằng hình tượng trưng - Tóm tắt bằng kẻ ô. Tuy nhiên trong một bài toán cụ thể, tôi luôn hướng cho các em chọn cách tóm tắt nào dễ hiểu nhất, ngắn gọn nhất. c) Phân tích đề toán: Sau khi cho học sinh tóm tắt xong bài toán, tôi yêu cầu các em đọc thật kĩ lại đề toán (đọc thầm), rồi tự phân tích các dữ kiện và ẩn số của bài toán để sau đó các em tự giải được bài toán. d) Viết bài giải: Dựa vào phần tóm tắt và quá trình tự phân tích bài toán của học sinh, các em sẽ dễ dàng viết được bài giải một cách chính xác và đầy đủ. e) Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải: 7