SKKN Xây dựng hệ thống bài toán có thể giải nhanh dùng làm câu trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Xây dựng hệ thống bài toán có thể giải nhanh dùng làm câu trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_xay_dung_he_thong_bai_toan_co_the_giai_nhanh_dung_lam_c.doc
Nội dung text: SKKN Xây dựng hệ thống bài toán có thể giải nhanh dùng làm câu trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn
- Phần nội dung Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài. 1.1. Cơ sở lí luận về trắc nghiệm 1.1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu 1.1.1.1. Trên thế giới Theo Nguyễn Phụng Hoàng, Võ Ngọc Lan [7] , các phương pháp đo lường và trắc nghiệm đầu tiên được tiến hành vào thế kỷ XVII - XVIII ở khoa Vật lý - Tâm lý. Năm 1879 ở Châu Âu, phòng thí nghiệm Tâm lí đầu tiên được Wichlm Weent thành lập tại Leipzig. Đến năm 1904 Alfred Binet, nhà tâm lí học người Pháp trong quá trình nghiên cứu trẻ em mắc bệnh tâm thần, đã xây dựng một số bài trắc nghiệm về trí thông minh. Năm 1916 Lewis Terman đã dịch và soạn các bài trắc nghiệm này ra tiếng Anh từ đó trắc nghiệm trí thông minh được gọi là trắc nghiệm Stanford - Binet. Theo Giáo sư. Trần Bá Hoành [6] vào đầu thế kỷ XX, E. Thorm Dike là người đầu tiên đã dùng TNKQ như là phương pháp "khách quan và nhanh chóng" để đo trình độ học sinh, bắt đầu dùng với môn số học và sau đó là một số môn khác. Trong những năm gần đây trắc nghiệm là một phương tiện có giá trị trong giáo dục. Hiện nay trên thế giới trong các kì kiểm tra, thi tuyển một số môn đã sử dụng trắc nghiệm khá phổ biến. - ở Mỹ, đầu thế kỷ XX đã bắt đầu áp dụng phương pháp trắc nghiệm vào quá trình dạy học. Năm 1940 đã xuất bản nhiều hệ thống trắc nghiệm đánh giá kết quả học tập của học sinh. Năm 1961 có 2126 mẫu trắc nghiệm tiêu chuẩn. Đến năm 1963 đã sử dụng máy tính điện tử thăm dò bằng trắc nghiệm trên diện ròng. 1
- - ở Anh thành lập hội đồng toàn quốc hàng năm quyết định các mẫu trắc nghiệm tiêu chuẩn cho các trường trung học. - ở Nga, trong những năm đầu của thế kỷ XX nhiều nhà sư phạm đã sử dụng kinh nghiệm của nước ngoài nhưng thiếu chọn lọc nên bị phê phán. Đến năm 1962 phục hồi khả năng sử dụng trắc nghiệm trong dạy học. - ở Trung Quốc đã áp dụng trắc nghiệm trong kỳ thi đại học từ năm 1985. - ở Nhật Bản cũng đã sử dụng phương pháp trắc nghiệm. Có một trung tâm quốc gia tuyển sinh đại học phụ trách vấn đề này. - ở Hàn Quốc từ năm 1980 đã thay các kì tuyển sinh riêng rẽ ở từng trường bằng kỳ thi trắc nghiệm thành quả học tập trung học bậc cao toàn quốc. 1.1.1.2. ở Việt Nam. Có thể nói ở Miền Nam, trước năm 1975, TNKQ phát triển khá mạnh. Từ năm 1956 đến những năm 1960 trong các trường học đã sử dụng rộng rãi hình thức thi TNKQ ở bậc trung học. Năm 1969 "Trắc nghiệm đo lường thành quả học tập" của GS. Dương Thiệu Tống được xuất bản [19]. Như vậy, đã có tài liệu tham khảo về TNKQ cho giáo viên và học sinh và các nghiên cứu về TNKQ cũng khá phát triển lúc bấy giờ. Năm 1974, kỳ thi tú tài toàn phần đã được thi bằng TNKQ [19]. Sau năm 1975 một số trường vẫn áp dụng TNKQ song có nhiều tranh luận nên không áp dụng TNKQ trong thi cử. Những nghiên cứu đầu tiên của TNKQ ở miền Bắc là của GS. Trần Bá Hoành. Năm 1971, ông đã công bố: "Dùng phương pháp test để kiểm tra nhận thức của học sinh về một số khái niệm trong chương trình Sinh học đại cương lớp IX" [5]. Một số tác giả khác cũng đã sử dụng trắc nghiệm vào một số lĩnh vực khoa học chủ yếu là trong tâm lý học và số ngành khoa học khác. Ví dụ, tác giả Nguyễn Như Ân (1970) dùng phương pháp trắc nghiệm trong việc thực 2
- hiện đề tài "Bước đầu nghiên cứu nhận thức tâm lý của sinh viên đại học sư phạm" Năm 1993 trường Đại học Bách khoa Hà Nội có cuộc hội thảo khoa học "kĩ thuật test và ứng dụng ở bậc đại học" (4/12/1993) của các tác giả Lâm Quang Thiệp, Phan Hữu Tiết, Nghiêm Xuân Nùng. Năm 1994 vụ Đại học cho in ấn "Những cơ sở của kĩ thuật trắc nghiệm" (Tài liệu lưu hành nội bộ) của tác giả Lâm Quang Thiệp. Trên thực tế, trắc nghiệm chưa được sử dụng rộng rãi ở bậc trung học phổ thông. Với bộ môn hóa học đã có nhiều luận án, luận văn nghiên cứu về đề tài trắc nghiệm. ở các trường phổ thông, việc sử dụng các câu hỏi, bài tập trắc nghiệm mới chỉ dừng lại ở mức cho giáo viên tham khảo trong dạy học và học sinh làm quen với một dạng bài tập mà được coi là mới chứ chưa quy định bắt buộc sử dụng trong kiểm tra đánh giá của các cấp quản lý giáo dục. 1.1.2. Khái niệm về trắc nghiệm Theo GS. Dương Thiệu Tống : "Một dụng cụ hay phương thức hệ thống nhằm đo lường một mẫu các động thái để trả lời câu hỏi: thành tích của các cá nhân như thế nào khi so sánh với những người khác hay so sánh với một lĩnh vực các nhiệm vụ dự kiến" [19]. Theo GS. Trần Bá Hoành: "Test có thể tạm dịch là phương pháp trắc nghiệm, là hình thức đặc biệt để thăm dò một số đặc điểm về năng lực, trí tuệ của học sinh (thông minh, trí nhớ, tưởng tượng, chú ý) hoặc để kiểm tra một số kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo của học sinh thuộc một chương trình nhất định [6]. Tới nay, người ta hiểu trắc nghiệm là một bài tập nhỏ hoặc câu hỏi có kèm theo câu trả lời sẵn yêu cầu học sinh suy nghĩ rồi dùng một kí hiệu đơn giản đã qui ước để trả lời. 1.1.3. Chức năng của trắc nghiệm Nhiều tác giả đề cập tới chức năng của trắc nghiệm, chúng tôi chỉ đề cập tới chức năng của trắc nghiệm đối với dạy học. 3
- Với người dạy, sử dụng trắc nghiệm nhằm cung cấp thông tin ngược chiều để điều chỉnh phương pháp nội dung cho phù hợp, nắm bắt được trình độ người học và quyết định nên bắt đầu từ đâu, tìm ra khó khăn để giúp đỡ người học, tổng kết để thấy đạt mục tiêu hay chưa, có nên cải tiến phương pháp dạy hay không và cải tiến theo hướng nào, trắc nghiệm nâng cao được hiệu quả giảng dạy. Với người học, sử dụng trắc nghiệm có thể tăng cường tinh thần trách nhiệm trong học tập, học tập trở nên nghiêm túc. Sử dụng trắc nghiệm giúp người học tự kiểm tra đánh giá kiến thức kĩ năng, phát hiện năng lực tiềm ẩn của mình (bằng hệ thống trắc nghiệm trên máy tính, nhiều chương trình tự kiểm tra và động viên khuyến khích người sử dụng tự phát hiện khả năng của họ về một lĩnh vực nào đó). Sử dụng trắc nghiệm giúp cho quá trình tự học có hiệu quả hơn. Mặt khác, sử dụng trắc nghiệm giúp người học phát triển năng lực tư duy sáng tạo, linh hoạt vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các tình huống nảy sinh trong thực tế. 1.1.4.Phân loại câu hỏi trắc nghiệm - Trắc nghiệm được phân loại theo sơ đồ sau: Các kiểu trắc nghiệm Khách quan Tự luận Câu Câu Câu Câu Trả điền đúng ghép nhiều lời Tự Bài khuyết sai đôi lựa một trả toán chọn câu lời 1.1.4.1. Trắc nghiệm tự luận 4
- * Khái niệm TNTL là phương pháp đánh giá kết quả học tập bằng việc sử dụng công cụ đo lường là câu hỏi, học sinh trả lời dưới dạng bài viết bằng ngôn ngữ chuyên môn của chính mình trong một khoảng thời gian đã định trước. TNTL cho phép học sinh sự tự do tương đối nào đó để viết ra câu trả lời tương ứng với mỗi câu hỏi hay một phần của câu hỏi trong bài kiểm tra nhưng đồng thời đòi hỏi học sinh phải nhớ lại kiến thức, phải biết sắp xếp và diễn đạt ý kiến của mình một cách chính xác và rõ ràng. Bài TNTL trong một chừng mực nào đó được chấm điểm một cách chủ quan và điểm cho bởi những người chấm khác nhau có thể không thống nhất. Một bài tự luận thường ít câu hỏi vì phải mất nhiều thời gian để viết câu trả lời [11], [16]. * Ưu, nhược điểm của trắc nghiệm tự luận. - Ưu điểm: + Câu hỏi TNTL đòi hỏi học sinh phải tự trả lời và diễn đạt bằng ngôn ngữ của chính mình, nên nó có thể đo được nhiều mức độ tư duy, đặc biệt là ở khả năng phân tích, tổng hợp, so sánh. Nó không những kiểm tra được độ chính xác của kiến thức mà học sinh nắm được, mà còn kiểm tra được kĩ năng, kĩ xảo giải bài tập định tính cũng như định lượng của học sinh. + Có thể kiểm tra đánh giá các mục tiêu liên quan đến thái độ, sự hiểu biết những ý niệm, sở thích và tài diễn đạt tư tưởng. Hình thành cho học sinh thói quen sắp đặt ý tưởng, suy diễn, khái quát hóa, phân tích, tổng hợp phát huy tính độc lập tư duy sáng tạo. + Việc chuẩn bị câu hỏi dễ, ít tốn thời gian so với câu hỏi TNKQ. - Nhược điểm: + TNTL số lượng câu hỏi ít từ 1 đến 10 câu tùy thuộc vào thời gian. Dạng câu hỏi thiếu tính chất tiêu biểu, giá trị nội dung không cao, việc chấm điểm gặp khó khăn, tính khách quan không cao nên độ tin cậy thấp. 5
- + Cũng do phụ thuộc vào tính chủ quan của người chấm nên nhiều khi cùng một bài kiểm tra, cũng một người chấm nhưng ở hai thời điểm khác nhau hoặc cùng một bài kiểm tra nhưng do hai người khác nhau chấm thì kết quả chấm cũng có sự khác nhau do đó phương pháp này có độ giá trị thấp. + Vì số lượng câu hỏi ít nên không thể kiểm tra hết các nội dung trong chương trình học, các mục tiêu làm cho học sinh có chiều hướng học lệch, học tủ và có tư tưởng quay cóp trong lúc kiểm tra [7], [10] , [13]. 4.1.4.2. Trắc nghiệm khách quan * Khái niệm: TNKQ là phương pháp KT - ĐG kết quả học tập của học sinh bằng hệ thống câu hỏi TNKQ. Trắc nghiệm được gọi là khách quan vì cách cho điểm là khách quan chứ không chủ quan như bài TNTL. Có thể coi kết quả chấm điểm là như nhau không phụ thuộc vào người chấm bài trắc nghiệm đó. [19]. * Ưu và nhược điểm của TNKQ. - Ưu điểm: + Trong một thời gian ngắn kiểm tra được nhiều kiến thức cụ thể, đi vào những khía cạnh khác nhau của một kiến thức. + Nội dung kiến thức kiểm tra "rộng" có tác dụng chống lại khuynh hướng học tủ, học lệch. + Số lượng câu hỏi nhiều, đủ cơ sở tin cậy, đủ cơ sở để đánh giá chính xác trình độ của học sinh thông qua kiểm tra. + Tuy việc biên soạn câu hỏi tốn thời gian, song việc chấm bài nhanh chóng và chính xác. Ngoài ra có thể sử dụng các phương tiện kĩ thuật để chấm bài một cách rất nhanh chóng và chính xác. + Gây hứng thú và tích cực học tập cho học sinh. + Giúp học sinh phát triển kĩ năng nhận biết, hiểu, ứng dụng và phân tích. + Với phạm vi bao quát rộng của bài kiểm tra, học sinh không thể chuẩn bị tài liệu để quay cóp. Việc áp dụng công nghệ mới vào việc soạn thảo 6
- các đề thi cũng hạn chế đến mức thấp nhất hiện tượng nhìn bài hay trao đổi bài. - Nhược điểm: + Phương pháp TNKQ hạn chế việc đánh giá năng lực diễn đạt viết hoặc nói, năng lực sáng tạo, khả năng lập luận, không luyện tập cho học sinh cách hành văn, cách trình bày, không đánh giá được tư tưởng, nhiệt tình thái độ của học sinh. + Có yếu tố ngẫu nhiên, may rủi. + Việc soạn câu hỏi đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. + Tốn kém trong việc soạn thảo, in ấn đề kiểm tra và học sinh cũng mất nhiều thời gian để đọc câu hỏi. - Các loại câu hỏi TNKQ và ưu, nhược điểm của chúng. * Loại đúng - sai hoặc có - không. Loại này được trình bày dưới dạng một câu phát biểu và thí sinh phải trả lời bằng cách lựa chọn đúng (Đ) hoặc sai (S). Hoặc chúng có thể là những câu hỏi trực tiếp để được trả lời là có hay không. Loại câu này rất thông dụng vì loại câu hỏi này thích hợp với những kiến thức sự kiện, có thể kiểm tra nhiều kiến thức trong một thời gian ngắn. Giáo viên có thể soạn một đề thi trong thời gian ngắn. Khuyết điểm của loại này là khó xác định điểm yếu của học sinh do yếu tố đoán mò xác suất 50%, có độ tin cậy thấp, đề ra thường có khuynh hướng trích nguyên văn giáo khoa nên khuyến khích thói quen học thuộc lòng hơn là tìm tòi suy nghĩ. * Loại trắc nghiệm ghép đôi: Là những câu hỏi có hai dãy thông tin, một bên là các câu hỏi, bên kia là câu trả lời. Số câu ghép đôi càng nhiều thì xác suất may rủi càng thấp, do đó càng tăng phần ghép so với phần được ghép thì chất lượng trắc nghiệm càng được nâng cao. Loại này thích hợp với câu hỏi sự kiện khả năng nhận biết kiến thức hay những mối tương quan không thích hợp cho việc áp dụng các kiến thức mang tính nguyên lí, quy luật và mức đo các khả năng trí năng cao. 7