SKKN Nâng cao chất lượng cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh cho trẻ 4-5 tuổi
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Nâng cao chất lượng cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh cho trẻ 4-5 tuổi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_nang_cao_chat_luong_cho_tre_lam_quen_voi_moi_truong_xun.doc
Nội dung text: SKKN Nâng cao chất lượng cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh cho trẻ 4-5 tuổi
- A - ĐẶT VẤN ĐỀ I – LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Bác Hồ kính yêu đã nói : “ vì lợi ích mười năm trồng cây Vì lợi ích trăm năm trồng người .” Giáo dục Mầm Non là ngành học mở đầu trong hệ thống giáo dục quốc dân, chiếm vị trí quan trọng. Trong giáo dục Mầm non có nhiệm vụ xây dựng những cơ sở ban đầu, đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách con người. Trẻ em là hạnh phúc của mọi gia đình, là tương lai của cả dân tộc, việc bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ không phải chỉ là trách nhiệm của mơi người và của toàn xă hội và của cả nhân loại. Đây là thời điểm mấu chốt và quan trọng nhất, thời điểm này tất cả mọi việc đều bắt đầu: bắt đầu ăn, bắt đầu nói, bắt đầu nghe, nhìn và vận động bằng đội chân, đôi tay của mình tất cả những cử chỉ đó đều làm lên nhưng thói quen,kể cả thói xấu. Chính vì vậy chúng ta đã bước sang thế kỷ 21 thế kỷ nền văn minh trí tuệ, của nền khoa học hiện đại. Do vậy con người cần phải năng động sáng tạo để phù hợp với sự phát triển của thời đại. Muốn được như vậy ngay từ tuổi ấu thơ trẻ MâmNon, Đặc biệt là trẻ 4- 5 tuổi đang ở nhũng bước phát triển mạnh về nhận thức, tư duy, về ngôn ngữ, về tình cảm những thế giới khách quan xung quanh thật bao la rộng lớn ,có biết bao điều mới lạ hấp dẫn , và còn có bao lạ lẫm khó hiểu, trẻ tò mò muốn biết, muốn được khám phá, cho nên giáo dục mầm non dã góp phần không nhỏ vào việc giáo dục thế hệ trẻ. Trách nhiệm nặng nề và cao cả ấy tất cả thuộc về cô giáo Mầm Non tạo nên nền tảng vững chắc, là chặng đường khôn lớn của trẻ. Ở lứa tuổi này “ cái nảy sảy cái ung” chính vì vậy sự nhảy cảm và có trách nhiệm cao là yêu cầu không thể thiếu trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ, cô giáo phải rất linh hoạt nhạy bén kịp thời, có năng lực và có tính chủ động sáng tạo. Vậy giáo dục có tầm quan trọng rất lớn đối với đời sống con người nhất là ở tuổi Mầm non. Ca dao xưa có câu “ dạy con từ thủa còn thơ ” câu ca dao ấy đã đi vào lòng người và không thể nào quên . Mỗi chúng ta đều được lớn lên từ 1
- những tiếng du dịu ngọt của bà của mẹ cất lên “Cháu ơi cháu ở với bà” hoặc “ con ơi con ngủ cho ngon ” Đã hoà vào hồn ta và du ta khôn lớn vì vậy cho trẻ LQ với Môi trường xung quanh mang lại nguồn biểu tượng vô cùng phong phú, đa dạng, xinh động, đầy hấp dẫn với trẻ thơ, thế giới xung quanh xinh động là vậy, thích thú là vậy, vì thế trẻ luôn có niềm khao khát khám phá, tìm hiểu về chúng . Cho trẻ LQ với môi trường xung quanh sẽ cung cấp cho trẻ vốn hiểu biết những gì xung quanh mình, từ môi trường tự nhiên ( cỏ cây, hoa lá, chim uông )đến môi trường xã hội ( công việc của mỗi người trong xã hội, mối quan hệ của con người với nhau ) và trẻ hiểu biết về chính bản thân mình, mặt khác việc cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh trong trường mầm non đang gặp một số khó khăn về cơ sở vật chất. Nếu giáo viên không quan tâm tạo điều kiện học tập cho trẻ, không sáng tạo trong việc tổ chức, tổ chức tiết dạy nhằm làm cho trẻ hứng thú, tập chung chú ý vào tiết học thì hiệu quả không cao. Trên thực tiễn hiện nay các tiết học “ LQ với môi trường xung quanh cho trẻ 4- 5 tuổi còn rất tẻ nhạt, giáo viên ngại dậy trẻ chưa có hứng thú học tập “ vì vậy việc sử dụng những thủ thuật gây hứng thú cho trẻ nhằm nâng cao tiết học “ LQ với môi trường xung quanh” là rất cần thiết, chính vì vậy mà tôi đã chọn đề tài này . II / Mục đích nghiên cứu Trong công tác giáo dục trẻ mầm non thì việc cho trẻ làm quen với môi trường xung là không thể thiếu. Môi trường xung quanh có tác dụng giáo dục về mọi mặt đối với trẻ như là: ngôn ngữ, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ, thể lực Làm quen với môi trường xung quanh là phương tiện để giao tiếp và làm quen với môi trường xung quanh để giao lưu và bầy tỏ nguyện vọng của mình và đồng thời là công cụ của tư duy. Vì vậy các nhà giáo dục sử dụng nhiều phương pháp để cho trẻ tiếp cận với thể giới xung quanh . III / Nhiệm vụ nghiên cứu 2
- Qua đề tài nghiên cứu giúp giáo viên có những định hướng phù hợp trong công tác chăm sóc cho trẻ mầm non ở độ tuổi 4 - 5 tuổi sau khi vận dụng đề tài sẽ góp phần đắc lực cho quá trình hình thành nhân cách cho trẻ. IV/ Đối tượng nghiên cứu Căn cứ vào yêu cầu của đề tài, tôi chọn đối tượng nghiên cứu là trẻ Mầm Non 4 – 5 tuổi trường Mầm Non An Tường V / Giới hạn phạm vi nội dung nghiên cứu Trong phạm vi khả năng và trách nhiệm của mình . Tôi vận dụng vấn đề mà bài viết này đề cập đến chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non từ 4 - 5 tuổi ở chính đơn vị trường tôi dang công tác . Đề tài được tiến hành trong một năm học, từ tháng 9 năm 2014 đến tháng 3 năm 2015 tại lớp Mẫu giáo 4 tuổi A của trường Mầm Non An Tường. VI / Phương pháp nghiên cứu Trước hết bản thân phải nhận định được tình hình chung của đối tượng nghiên cứu,sau đó đọc, phân tích, tổg hợp tài liệu tham khảo. Để xây dượng đề cương sáng kiến, áp dụng sáng kiến và hoàn thành sáng kiến. VII / Cấu trúc của sáng kiến kinh nghiệm A. Đặt vấn đề B. Nội dung C. kết luận 3
- B – NỘI DUNG I – TÌNH HÌNH THỰC TẾ 1/ Tình trạng trước khi thực hiện đề tài a. thuận lợi : Được sự quan tâm của Phòng GD - ĐT, thường xuyên tâm bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên . Bản thân luôn yêu nghề mến trẻ, ham học hỏi nâng cao chuyên môn. Tìm tòi và tự làm một số đồ dùng, đồ chơi để phục vụ tiết dạy vào hoạt động vui chơi của trẻ . Trẻ ở gần trường nên rất chăm đi lớp . b. Khó khăn: Cơ sở vật chất thiếu thốn, phòng học chật hẹp, đồ dùng phục vụ tiết dạy còn rất thiếu thốn như : những vật mẫu, những con vật thật, đồ vật Góc tự nhiên còn nghèo, số cây ít, loại cây chưa phong phú, đồ chơi, đồ dùng còn ít Số trẻ ở lớp chưa qua nhóm lớp nhà trẻ, trẻ đến lớp 4 - 5 tuổi chiếm 80 % , khả năng trẻ tiếp thu chậm . Vốn hiểu biết về môi trường xã hội còn hạn chế . Đồ dùng phục vụ tiết dạy còn nghèo nàn, đồ chơi của trẻ cũng rất ít, thiếu những hình ảnh đẹp, sinh động để trẻ quan sát . 2- Số liệu điều tra trước khi thực hiện Trước khi thực hiện đề tài tôi đã có những tiết cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh, tôi thấy vốn biểu tượng về thế giới xung quanh của trẻ còn ít , đặc biệt trẻ rất rễ nhầm lẫn, khi gọi tên các con vật. ví dụ như : Tất cả các con vật biết bay, trẻ đều gọi là chim mà không gọi được đó là chim én hay chim bồ câu Mặt khác khả năng quan sát, phân loại của trẻ gặp rất nhiều khó khăn, số liệu cụ thể qua từng tiết dạy được tổng hợp trong bảng sau : Bảng 1: Kết quả tổng kết khả năng quan sát, So sánh, phân loại vật mẫu của trẻ 4
- ( Tổng số trẻ là 41) STT Kỹ năng quan sát, tìm ra đặc điểm, Kết quả khả năng so sánh, phân loại Số lượng Tỷ lệ % 1 Loại tốt 8 20 2 Loại khá 10 24 3 Loại TB 18 44 4 Loại yếu 5 12 Từ kết quả như trên, tôi luôn băn khoăn suy nghĩ tìm nhiều biện pháp để tiết dạy “ LQ với môi trường xung quanh ” đạt hiệu quả cao hơn. Từ đó nâng dần khả năng quan sát, so sánh và phân loại cho trẻ, làm phong phú biểu tượng về môi trường xung quanh trong mỗi trẻ . Dựa vào vốn kiến thức đã học và được bồi dưỡng chuyên môn, tôi đã tìm ra một số biện pháp sau :” II . NỘI DUNG THỰC HIỆN Sau một năm thực hiện đề tài , tôi đã sử dụng một số biện pháp sau : 1- Xây dựng cơ sở vật chất 2- Bổ sung đồ dùng, đồ chơi để tiết dạy thêm sinh động, hấp dẫn . 3- Xây dựng góc ( bé với thiên nhiên ) 4- Làm giầu vốn biểu tượng về môi trường xung quanh . 5- Rèn trẻ thông qua tiết dạy . 6- Nâng cao kỹ năng quan sát, so sánh và phân loại 7- Kết hợp giữa cô giáo và phụ huynh để đạt hiệu quả dạy trẻ cao nhất III. NHỮNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN 1. Xây dựng cơ sở vật chất Đồ dùng trực quan, đồ chơi phục vụ tiết học như: Bàn, ghế, bảng, tranh, mô hình, các từ gắn với mỗi hình ảnh, vật mẫu Cần phải đầy đủ cho cô và trẻ cùng hoạt động . Đồ dùng của trẻ cũng phải đẹp, hấp dẫn, phong phú sinh động nhằm kích thích hứng thú,tò mò lòng ham hiểu biết của trẻ, tôi thường sử dụng đồ thật, vật thật hoặc hình ảnh động cho tiết học để học sinh học . 5
- Dựa vào yêu cầu thực tế dạy trẻ, tôi đề nghị với BGH nhà trường trang bị thêm thiết bị, đồ dùng dạy học như: Bảng, tranh ảnh , lôtô , và với mỗi tiết cần có đồ dùng để phục vụ thật đầy đủ . Với các bậc phụ huynh vận động họ mua thêm đồ dùng, tranh, truyện, đặc biệt là tranh, sách, ảnh về các con vật, cây cối, hoa lá, quả , Sưu tầm những câu ca dao, tục ngữ, đồng dao để làm phong phú vốn hiểu biết về môi trường xung quanh của trẻ . Với chính bản thân mình tôi tận dụng những nguyên vật liệu có sẵn ở địa phương như : vải vụn, coọng rơm khô, lá khô, hoa ép khô, vỏ cây khô để làm tranh ảnh cho tiết dạy. Sưu tầm các loại hạt, các loại vỏ trai ốc, hến sò để bổ xung làm ra đồ chơi của trẻ . 2. Bổ xung đồ chơi Được nhà trường cấp cho tranh dạy môi trường xung quanh, lô tô các loại Ngoài ra tôi còn tự làm đồ dùng phục vụ tiết dạy, các loại tranh ảnh, hình ảnh, các con vật, cây cỏ, hoa lá Sưu tầm tranh có hình ảnh đẹp xử dụng trong việc cho trẻ LQ với môi trường xung quanh. Tận dụng các hình ảnh ở đốc lịch, bìa, hoạ báo, ảnh cũ Vừa trang trí lớp vừa làm đồ dùng đồ chơi . Tôi tận dụng bìa cát tông có dây dật thật sinh động, hấp dẫn, gây hứng thú với trẻ. Sau đó để trẻ tự điều khiển, để trẻ biết con vật này có chân hay có cánh, có chân thì biết chạy có cánh thì biết bay . Tôi để cho trẻ tự làm một sản phẩm như tranh vẽ về các con vật, cỏ cây ,hoa lá, hoặc các sản phẩm nặn những đồ vật xung quanh trẻ , các sản phẩm tạo hình, tranh từ những phế liệu, cô và trẻ cùng làm thể hiện vốn hiểu biết phong phú của trẻ về MTXQ . Tôi sưu tầm những bài thơ về môi trường xung quanh, sau đó dùng hình ảnh minh hoạ và có chữ viết đi cùng. Vừa giúp trẻ củng cố hình ảnh vừa để trẻ rèn luyện ngôn ngữ. Từ đó tư duy của trẻ cũng phát triển . Với những đồ dùng, đồ chơi được phát và tự làm khi tôi đưa vào sử dụng trong tiết dạy môi trường xung quanh, tôi thấy trẻ rất hào hứng, hứng thú học, trẻ hiểu biết nhiều, quan sát rất tốt, tìm rất nhanh các vật mẫu cô đưa ra, so sánh 6
- và phân loại cũng rất rõ ràng, rành mạch, ngôn ngữ rất phát triển, trẻ thuộc rất nhiều thơ ca dao, tục ngữ, đặc biệt là các câu đố về các con vật, các cây hoa, các loại quả Tư duy của trẻ cũng nhanh và chính xác hơn . 3. Xây dựng góc “bé với thiên nhiên ” Góc thiên nhiên là nơi dành cho các hoạt động chăm sóc cây cối: Nhặt cỏ ,bắt sâu, tưới nước, ngoài ra còn là nơi tìm đọc các loại sách về thiên nhiên, các tranh ảnh về thế giới tự nhiên . Tôi xây dựng góc thiên nhiên có các cây xanh như: cây vạn niên thanh , cây hoa hồng Dàn dây leo . Tôi bố trí giá sách chủ yếu là sách vẽ con vật, cây cối, hoa lá, quả hạt Tranh ảnh vừa tầm với của trẻ để trẻ có thể xem và đọc sách ( có que chỉ cho việc đọc sách ) Đọc sách theo từng chữ, từng dòng, tôi sắp xếp các hộp đựng vỏ cây khô hoa lá ép khô, các loại hạt Có gắn nhãn mác và hình ảnh rõ ràng để trẻ rễ nhận thấy, trẻ được chơi và làm được những sản phẩm từ những dồ chơi ấy . ngoài ra tôi cũng dùng vỏ hến, ốc trai, sò vỏ trứng vệ sinh sạch sẽ vừa làm đồ dùng, đồ chơi phong phú vừa rẻ tiền vừa rễ kiếm Các tranh, lô tô đều đợc phân loại để ở giá vừa rễ lấy, rễ tìm . Ví dụ : Tôi phân loại lô tô : - Lô tô con vật xếp vào một ô . - Lô tô các loại quả xếp vào một ô Đối với tranh đều có chữ cái tương ứng ở dưới cũng được phân loại xếp gọn gàng và rễ kiếm . 4. Làm giầu vốn hiểu biết về môi trường xung quanh Biểu tượng về thế giới sung quanh, đa đến với trẻ qua nhiều hình thức : Câu đố, bài hát, ca dao, tục ngữ, đồng dao, tranh ảnh, đồ vật, vật thật Giúp trẻ không bị nhàm chán, lại rễ tiếp thu để trẻ ghi nhớ và chính xác hoá thành biểu tượng của mình . Ví dụ : Cho trẻ làm quen với con cua : “ Con gì tám cẳng hai càng. Đầu thì không có bò ngang cả đời ” 7