Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng đồ dùng học môn Mỹ thuật đạt hiệu quả cao
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng đồ dùng học môn Mỹ thuật đạt hiệu quả cao", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_su_dung_do_dung_hoc_mon_my_thuat_dat_h.doc
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng đồ dùng học môn Mỹ thuật đạt hiệu quả cao
- PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài: Hành trang bước vào đời của chúng ta là kho tàng kiến thức. Để chiếm lĩnh được nó con người cần có ý thức học tập cũng như vấn đề tạo cuộc sống cho mình. Ý thức tự học và rèn luyện là bản chất và khả năng kinh nghiệm cho hành trang tương lai. Do đó mỗi người cần phải trang bị cho mình khối kiến thức đó đề góp phần phát triển đất nước. Hoạt động dạy và học là một vấn đề cần quan tâm của Đảng và Nhà nước. Việc sử dụng đồ dùng dạy học sẽ tạo cho mình một khả năng phát huy tính sáng tạo và phát triển tư duy, phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh sau này là làm chủ được bản thân. Kinh nghiệm sống cho mình. Yêu cầu của vấn đề dạy học lấy học sinh làm trung tâm luôn đề cao tính tự học, nghiên cứu bài học của học sinh. Học sinh sử dụng đồ dùng dạy học sẽ phát huy tính sáng tạo cho mình được tốt hơn trong việc học. Đặc biệt môn Mĩ thuật nói riêng và các môn khác nói chung. Học sinh lớp 7 ở trường THCS Nguyễn Trãi, huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai, do yêu cầu học tập nên các em muốn tìm tòi sáng tạo cộng thêm tính tự học của một số bạn học khá nên vấn đề giúp nhau học tập là chuyện cần phải giúp đỡ nhau cũng như vấn đề tự rèn luyện đó là hành trang cho các em có được tính sáng tạo và khả năng học tập sẽ phát huy cao hơn. Ngoài thời gian học tập trên lớp, các em còn học ở nhà. Nhưng với thời gian này là rất ít vì bản thân các em có nhiều suy nghĩ cho bản thân nên ý tưởng học tập còn yếu kém nên cần phải phát huy hơn. Như vậy bản thân các em lớp 7 nói riêng và các lớp nói chung sẽ làm gì cho công việc học tập về vấn đề sử dụng đồ dùng dạy học cho hành trang tiếp bước sau này. 1
- Bản thân tự nhận thấy học sinh sử dụng đồ dùng dạy học trong việc học sẽ tạo cho mình có được tính sáng tạo và khả năng vấn đề học sinh tiếp cận với đồ dùng dạy học sẽ có hiệu quả hơn. Còn đối với giáo viên việc sử dụng đồ dùng dạy học như là một công cụ trong việc sáng tạo và rèn luyện bản chất cho mình. Đó là lí do chính mà tôi lựa chọn để thực hiện đề tài này. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: Nghiên cứu đề tài này nhằm phát huy được khả năng sử dụng đồ dùng học tập môn Mỹ thuật một cách có hiệu quả trong việc học tập và rèn luyện của học sinh THCS. 3. Đối tượng nghiên cứu: Tìm hiểu thực trạng trong việc “Sử dụng đồ dùng học môn Mỹ thuật đạt hiệu quả cao” của học sinh Trường THCS Nguyễn Trãi, huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai. 4. Phương pháp nghiên cứu: - Xem tài liệu liên quan đến môn mỹ thuật như : • Sách giáo khoa mỹ thuật lớp 6, 7, 8, 9. • Sách giáo viên mỹ thuật lớp 6, 7, 8, 9. •Lược sữ Mỹ thuật và mỹ thuật học của Chu Quang Trứ - Phạm Thị Chỉnh - Nguyễn Thái Lai . • Bộ đồ dùng dạy học mỹ thuật lớp 6. - Sưu tầm các vật mẫu, tranh ảnh liên quan đến môn mỹ thuật. - Xem các tài liệu liên quan đến tâm lý trẻ như : • Tâm lý học trẻ em • Giáo dục học - Điều tra thực trạng học sinh ở trường THCS Nguyễn Trãi, huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai. 2
- - Thực hiện cải tiến hình thức, phương pháp giảng dạy cho phù hợp với đối tượng học sinh. - Tự học tập ở đồng nghiệp, đời sống, qua hội thảo chuyên đề, trong giảng dạy ở các giờ học, kiểm tra học sinh. PHẦN 2 : NỘI DUNG Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Cơ sở lí luận: 1.1. Khái niệm về tác động tích cực: Là những tác động tốt từ những sự vật hiện tượng này lên một đối tượng nào đó. Nhằm đưa đối tượng đó phát triển cao hơn theo chiều hướng tốt phù hợp với nhu cầu phát triển chung của gia đình và xã hội. 1.2. Khái niệm về sử dụng đồ dùng dạy học: Đây là khái niệm nhằm nói lên sự vật, hiện tượng về sử dụng thiết bị dạy học cho học sinh. Công tác dạy của giáo viên được đảm bảo tốt hơn. Trong quá trình sử dụng mẫu vật, tranh ảnh, mô hình v.v 1.3. Mối quan hệ giữa tác động tích cực và việc sử dụng đồ dùng dạy học: Sự tác động tích cực với việc sử dụng đồ dùng dạy học trong các môn học sẽ đem lại cho công tác dạy và học bao giờ cũng cao và hiệu quả nhằm phát huy hết khả năng sẵn có trong việc học của học sinh và công tác dạy học của giáo viên. Đó là mục tiêu chính nhằm đem lại nhận thức đúng đắn hơn về vấn đề sử dụng tích cực đồ dùng dạy học. 2 . Cơ sở tâm lí học: Đây là lứa tuổi từ 11 đến 15 là thời kỳ chuyển từ tuổi thơ ấu đến tuổi trưởng thành. Lứa tuổi này có một vị trí đặc biệt quan trọng trong thời kỳ phát triển của trẻ em và được gọi là lứa tuổi độc đáo “ tuổi quá độ ” , “ tuổi bất trị”, “ tuổi khủng hoảng” . Đây là lứa tuổi mà sự phát triển của thiếu niên diễn ra mạnh 3
- mẽ và không cân đối. Hoạt động thần kinh cấp cao hưng phấn chiếm ưu thế rõ rệt, khó kiềm chế hành vi của mình, không làm chủ được cảm xúc, dễ bị kích động, hiện tượng dậy thì và chuyển biến trong cơ thể thiếu niên ảnh hưởng lớn đối với sự nảy sinh cơ cấu tâm lý mới. Các em có cảm giác mình là người lớn các em quan tâm đến bạn khác giới . Trong gia đình các em muốn được bố mẹ thừa nhận như một thành viên tích cực của gia đình, muốn được tham gia bàn bạc một số công việc của gia đình. Ở nhà trường và xã hội : các em tham gia nhiều công việc có tính tập thể, tham gia trọng trách cao hơn, muốn mở mang kiến thức. Trí tuệ của các em trong thời kỳ này phát triển mạnh: khả năng phân tích tổng hợp phức tạp khi tri giác các sự vật, hiện tượng, khối lượng thị giác tăng lên, tri giác có kế hoạch, có trình tự và hoàn thiện hơn, trí nhớ cũng được thay đổi về chất tư duy có sự thay đổi cơ bản từ tư duy cụ thể sang tư duy trừu tượng. Về nhân cách: sự hình thành ý thức đây là đặc điểm quan trọng ở lứa tuổi thiếu niên. Ban đầu các em nhận thức về hành vi của mình, của bản thân sau đó các em ý thức về phẩm chất, về đạo đức, tính cách, năng lực của mình. Sự hình thành ý thức đạo đức nói chung và sự lĩnh hội các chuẩn mực nói riêng đây là đặc điểm tâm lý quan trọng trong lứa tuổi thiếu niên mà ai cũng quan tâm. 3. Cơ sở giáo dục học: Trong giao tiếp sư phạm, giáo viên thiết lập được quan hệ mật thiết với học sinh, thì sẽ gạt bỏ được hàng rào tâm lý giữa thầy và trò. Điều đó giúp giáo viên loại bỏ tính hình thức chủ nghĩa trong công tác giáo dục học sinh, vì trung tâm chú ý của giáo viên là trẻ em, là bản chất con người của trẻ. Học sinh trung học cơ sở có những đặc điểm tâm sinh lý riêng, khác với các lứa tuổi khác, hầu hết các em ở lứa tuổi khủng hoảng (11 đến 15 tuổi ). Do sự phát triển cơ thể có 4
- nhiều biến đổi, hệ cơ phát triển chậm hơn xương, hệ tuần hoàn, hệ hô hấp phát triển mạnh trong khi cấu tạo tim mạch phát triển chậm, chưa tương xứng với chức năng hoạt động, nhiều loại tuyến nội tiết phát triển, đặc biệt là tuyến sinh dục, từ đó tạo ra những biến đổi quan trọng về chức năng tâm lý như chú ý có chủ định kém đi, sự đãng trí xuất hiện, quan hệ người – người được học sinh chú ý đánh giá nhiều hơn. Nhiều cảm xúc mới lạ như cảm xúc giới tính, mối tình đầu xuất hiện. Sự chuyên tâm đến bài vở, nếu không được nhắc nhở thường xuyên, nhẹ nhàng sẽ dễ bị sao nhãng; tính nết thất thường, cảm xúc không ổn định Nhu cầu được thưởng thức văn học nghệ thuật, tham quan du lịch, tập thể dục, thể thao, vui chơi, giải trí như người lớn. Qua các hoạt động này, các em học tập ở bạn bè nhiều hành vi ứng xử đẹp, hành vi ngôn ngữ mang tính lứa tuổi hóm hỉnh vui nhộn. Nhu cầu thành đạt : học sinh trung học cơ sở đã có ý thức rèn luyện, phấn đấu trong học tập, trong thực hiện các công việc được giao theo các phương thức của người lớn (dùng trí tuệ, quan hệ hợp tác bạn bè, dùng kinh tế ) khi thực hiện công việc thường còn nôn nóng, mong sớm có kết quả, có xu thế tự đánh giá cao năng lực của mình, khi thất bại thì học sinh dễ nản – nhất là khi công việc quá sức. Khi giao tiếp với giáo viên về các nội dung học tập, các vấn đề xoay quanh nội quy học tập, các học sinh lớp 6 thường rụt rè, e ngại; các học sinh lớp 7,8,9 thường mạnh dạn hơn. Trong giao tiếp ứng xử, các em còn chịu sự chi phối bởi nhận thức cảm tính, thích thầy cô nào thì yêu luôn bộ môn đó ( môn đó có thể chỉ là môn phụ), ngược lại, không thích thầy cô nào thì ghét luôn bộ môn đó (thậm chí có khi là văn hoặc toán ) 5
- Chương 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN Thực tế cho thấy sử dụng đồ dùng dạy học môn Mĩ thuật 7 hiện nay: Theo chương trình SGK hiện nay, vấn đề sử dụng đồ dùng dạy hoc là phương pháp tích cực và cần thiết đối với mỗi chúng ta khi giảng dạy bộ môn này hay các bộ môn khác. Trong phân môn vẽ tranh, vẽ theo mẫu, vẽ trang trí đồ dùng dạy học là rất cần thiết đối với việc dạy và học.Việc thiếu đồ dùng dạy học là một trong những nguyên nhân khiến các em học tập không có hiệu quả cao trong vấn đề xây dựng bài cho mình. Đó là nguyên nhân chính cần khắc phục và tích cực hơn trong công tác làm đồ dùng dạy học hay mô hình cần thiết cho bản thân mình trong công tác giảng dạy. Ở lứa tuổi lớp 7, lứa tuổi đang thích khám phá những điều mới lạ thích tìm tòi sáng tạo thích giao lưu với các bạn cùng lứa. Điều này cho thấy các em đang dần phát triển nhân cách và sự cảm nhận của mình trong việc học. Có những bạn nói chung tính cách còn nhút nhát và một số bạn thì thích cho mình là hơn các bạn khác trong trường. Nhìn chung các em còn ngây thơ chưa hiểu hết được mọi vấn đề trong việc học cũng như trong việc sử dụng đồ dùng học tập sẵn có cho mình. Đã dẫn đến nhiều em không thích học hay còn mơ hồ về bộ môn học của mình. Cùng một bài học, nếu có sử dụng đồ dùng dạy học thì sẽ hiệu quả và phong phú hơn. So với các tiết không sử dụng. Điều này cũng hoàn toàn đúng với thực tế về tình cảm tâm sinh lý của học sinh. Nếu tiết học mà có sử dụng đồ dùng dạy học thì sẽ kích thích học sinh học tốt hơn và tạo được phấn khích hơn trong các môn học. Chương 3 : NHỮNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN Biện pháp 1 : CHUẨN BỊ ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN 6
- Mỹ thuật là môn học trực quan. Đối tượng của môn mỹ thuật là những gì ta có thể nhìn thấy, sờ được – có hình, có khối có đậm nhạt, có màu sắc, ở xung quanh ta, gần gũi và quen thuộc. Dạy Mỹ thuật thường dạy trên đồ dùng dạy học. Do vậy, đồ dùng dạy học của môn Mỹ thuật là nội dung, là kiến thức của bài học. Đồ dùng dạy học còn phản ánh mức độ kiến thức của bài học và trình độ của học sinh. Cho nên chuẩn bị tốt đồ dùng dạy học xem như giáo viên đã chuẩn bị tốt nội dung bài dạy và quá trình lên lớp chỉ còn là trình bày, diễn giải theo đồ dùng dạy học đã chuẩn bị. Về chuẩn bị : Yêu cầu chuẩn bị trước bài dạy một thời gian. Giáo viên đọc tài liệu, đọc bài dạy, sưu tầm tư liệu ( tranh ảnh, vật thực), bài vẽ của học sinh năm học trước, các phương tiện dạy học như máy chiếu qua đầu giấy trong, máy chiếu vật thể, ti vi hoặc đầu video và chuẩn bị biểu bảng cho sát với nội dung (theo trình tự của nội dung ). Tự tìm và thiết kế đồ dùng dạy học phù hợp với nội dung. Đồ dùng của học sinh là sách giáo khoa, bút vẽ, màu vẽ hay giấy màu, hồ dán, kéo, đất nặn tuỳ theo nội dung của bài học. Yêu cầu học sinh chuẩn bị trước một số đồ dùng cho bài học như mẫu vẽ, hoa lá, trnh ảnh sưu tầm, đọc bài trong sách giáo khoa hoặc sưu tầm các bài báo, tạp chí liên quan đến bài học Thí dụ : đồ dùng dạy học để giới thiệu khái niệm hay để làm phong phú cho nội dung, để gợi ý suy nghĩ hay tìm tòi, sáng tạo (về bố cục, về vẽ hình, về vẽ màu ), để hướng dẫn cách vẽ hoặc cách tìm màu, vẽ màu Hình thức đồ dùng dạy học cần to vừa phải, dễ thấy, có trọng tâm và vẻ đẹp để thu hút sự chú ý của học sinh. Ví dụ: Tiết 13- vẽ theo mẫu cái ấm tích và cái bát, giáo viên cần chuẩn bị đồ dùng dạy – học như sau : • Hình minh hoạ các bước tiến hành • Bài vẽ của học sinh năm trước. • Bút chì, gôm, giấy vẽ, bảng vẽ. 7