Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả giảng dạy thơ trữ tình hiện đại trong nhà trường THCS

doc 21 trang sangkien 31/08/2022 3620
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả giảng dạy thơ trữ tình hiện đại trong nhà trường THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_hieu_qua_giang_day_tho_tru_ti.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả giảng dạy thơ trữ tình hiện đại trong nhà trường THCS

  1. SỞ GIÁO DỤC &ĐÀO TẠO THANH HÓA PHÒNG GD & ĐT BỈM SƠN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢNG DẠY THƠ TRỮ TÌNH HIỆN ĐẠI TRONG NHÀ TRƯỜNG THCS Người thực hiện: LÊ THỊ LIÊN Chức vụ: HIỆU TRƯỞNG Môn: NGỮ VĂN Đơn vị: TRƯỜNG THCS XI MĂNG –BỈM SƠN NĂM HỌC 2011-2012 Năm học 2011-2012 Năm học: 2010 - 2011 Năm học: 2010 - 2011
  2. A- ĐẶT VẤN ĐỀ: Thơ là một công trình nghệ thuật sáng tạo bằng ngôn từ, là hình thức sáng tác văn học phản ánh đời sống của con người, xã hội thông qua những hình tượng nghệ thuật thể hiện tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhịp điệu. Đặc trưng cơ bản nhất của thơ là tính trữ tình. Tác phẩm trữ tình là văn bản biểu hiện tình cảm, cảm xúc của tác giả trước cuộc sống. Trong đó thơ trữ tình là một hình thái nghệ thuật đặc biệt. Cảm xúc, tâm trạng của tác giả có thể được bộc lộ trực tiếp hoặc gián tiếp qua hệ thống từ ngữ, vần, nhịp, các biện pháp tu từ Một bài ca dao hay một bài thơ trữ tình hiện đại bao giờ cũng là kết quả của sự huy động tổng lực những tâm tư, tình cảm, trí tưởng tượng, vốn ngôn ngữ, vốn sống của bản thân tác giả. Nó là sự kết hợp hài hoà, chặt chẽ giữa “ ý và lời”, “giữa nghệ thuật và nội dung”. Nội dung trữ tình luôn là cái đích cuối cùng phải vươn tới của quá trình sáng tác cũng như cảm thụ, phân tích thơ. Nắm được những đặc điểm này, người đọc, người nghe và đặc biệt người học phải biết khai thác, tìm hiểu những giá trị thẩm mỹ của tác phẩm thơ. Đây cũng là một vấn đề hết sức quan trọng đối với giáo viên Ngữ văn trong nhà trường phổ thông. Để giúp học sinh hiểu được tâm trạng, cảm xúc của nhà thơ trước những vấn đề cuộc sống và xã hội, giáo viên phải nắm vững đặc điểm thơ trữ tình để rút ra được những cách thức khám phá, tìm hiểu thể thơ trữ tình nói chung và thơ trữ tình hiện đại nói riêng; giúp học sinh tiếp cận văn bản thơ trữ tình đạt hiệu quả cao nhất, đồng thời giáo viên sẽ có một định hướng rõ ràng trong việc tiếp cận, phân tích đúng tác phẩm thơ. Dạy học thơ trữ tình với những đặc trưng, sẽ góp phần bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc, thị hiếu thẩm mĩ, tình cảm thẩm mĩ cho học sinh. Trong nhà trường Trung học cơ sở (THCS), giáo viên dạy Ngữ văn có nhiệm vụ hướng dẫn học sinh đi tìm, lĩnh hội được đầy đủ cái hay, cái đẹp của tác phẩm thơ. Chương trình Ngữ văn THCS có rất nhiều tác phẩm thơ hay, khi đọc, học thơ chúng ta mới chỉ ra cái hay, cái đẹp (cảm thơ), nhưng chưa phân tích được cái hay cái đẹp đó. Hơn nữa tác phẩm thơ trữ tình rất đa dạng, phong phú, phức tạp và sâu sắc: ngôn ngữ rất hàm súc, nói ít gợi nhiều, ý tại ngôn ngoại. Hiểu được các bài thơ một cách thấu đáo và giảng dạy như thế nào để học sinh cảm thụ được cái hay cái đẹp của văn chương, tạo được sự rung cảm, bồi đắp được tâm hồn, trí tuệ cho học sinh là vấn đề quan trọng được nhiều người quan tâm và là vấn đề mà rất nhiều giáo viên đứng lớp rất trăn trở. Chính vì lẽ đó mà việc giảng dạy thơ trữ tình trong nhà trường THCS là một vấn đề khó đối với giáo viên Ngữ văn hiện nay. Bởi lẽ, năng lực phân tích thơ tuỳ thuộc rất lớn vào trình độ hiểu biết văn chương, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ diễn đạt các thao tác, phương pháp phân tích của người giáo viên cũng như năng lực cảm thụ của học sinh. Làm thế nào để nâng cao hiệu quả giảng dạy thơ trữ tình nói chung và thơ trữ tình hiện nói riêng trong nhà trường THCS? 1
  3. Từ lý do trên, tôi nhận thấy rằng, người giáo viên phải là chiếc cầu nối giúp các em cảm nhận được thơ cái hay cái đẹp trong văn chương. Việc lựa chọn phương pháp giảng dạy thơ trữ tình phù hợp với từng đối tượng, vừa sức với học sinh, giúp các em vượt qua những khó khăn trên để cảm nhận được cái hay, cái đẹp của tác phẩm thơ trữ tình là cần thiết. Vì vậy, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài này nhằm nâng cao hiệu quả dạy thơ trữ tình hiện đại trong nhà trường THCS. 2
  4. B- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: I- MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THƠ TRỮ TÌNH: 1.Khái lược về thơ trữ tình: - Thơ là một thể loại văn học được xây dựng bằng hình thức ngôn ngữ ngắn gọn súc tích, theo những quy luật ngữ âm nhất định, nhằm phản ánh tâm trạng, thái độ, tình cảm, của người nghệ sĩ về đời sống thông qua những hình tượng nghệ thuật. - Trữ tình là phương thức phản ánh (hiện thực đời sống; hiện thực tâm trạng) bằng cách bộc lộ trực tiếp tình cảm, ý thức của tác giả thông qua cái tôi trữ tình, mang đậm dấu ấn cá nhân của chủ thể. - Thơ trữ tình dùng để chỉ chung các thể thơ thuộc loại trữ tình, trong đó nhà thơ bộc lộ một cách trực tiếp những cảm xúc riêng tư, cá thể về đời sống, thể hiện tư tưởng về con người, cuộc đời và thời đại nói chung. Nội dung của thơ trữ tình là biểu hiện tư tưởng, tình cảm làm sống dậy cái thế giới chủ thể của hiện thực khách quan, giúp ta đi sâu vào thế giới của những suy tư tâm trạng, nỗi niềm. 2. Đặc điểm chung của thơ trữ tình: 2.1. Tính trữ tình: Trữ tình là yếu tố quyết định tạo nên chất thơ. Tác phẩm thơ luôn thiên về diễn tả những cảm xúc, rung động, suy tư của chính nhà thơ về cuộc đời. Những rung động ấy xét đến cùng là những tiếng dội của những sự kiện, những hiện tượng đời sống vào tâm hồn nhà thơ. Đây là đặc điểm cơ bản nhất của tác phẩm thơ. Nắm vững đặc điểm này ta sẽ có một định hướng rõ ràng trong việc tiếp cận, phân tích đúng tác phẩm thơ. Nghĩa là, khi phân tích tác phẩm thơ, ta không phải đi sâu vào mổ xẻ, cắt nghĩa, lí giải về các chi tiết, sự kiện, sự việc được nhà thơ đề cập, mà điều cốt lõi là thấy và nói được những cảm xúc, tâm trạng, thái độ và suy tư của nhà thơ về các vấn đề trên. 2.2.Chủ thể trữ tình: Trong tác phẩm thơ ta luôn bắt gặp bóng dáng con người đang nhìn, ngắm, đang rung động, suy tư về cuộc sống. Con người ấy được gọi là chủ thể trữ tình. Nói cách khác, chủ thể trữ tình là con người đang cảm xúc, suy tư trong tác phẩm thơ. Nhân vật trữ tình trong tác phẩm thơ chỉ hiện diện, đối thoại với độc giả bằng những sắc thái tình cảm, thái độ tình cảm. Trong tác phẩm thơ, chủ thể trữ tình là yếu tố luôn có mặt để thể hiện nội dung trữ tình của tác phẩm. Cho nên, khi phân tích thơ, ta phải phân tích nội dung trữ tình. Muốn phân tích nội dung trữ tình thì nhất thiết, nắm bắt và phân tích được chủ thể trữ tình. Bởi lẽ, nội dung trữ tình luôn chứa trong chủ thể trữ tình. 3.Nội dung phản ánh trong thơ trữ tình: 3.1.Thơ trữ tình biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của con người. Trong tác phẩm trữ tình, tình cảm, cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ được trình bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu của tác phẩm. Ở đây, nhà thơ có thể biểu hiện cảm xúc cá nhân mình mà không cần kèm theo bất cứ một sự miêu tả biến cố, sự kiện nào. Người đọc cảm nhận trước hết là thế giới 3
  5. nội tâm, là thái độ xúc cảm và tâm trạng của nhân vật trữ tình đối với con người, cuộc đời và thiên nhiên. Nhà thơ có thể không cần phải miêu tả kỹ về con người và những nguyên nhân cụ thể dẫn tới những tình cảm đó. Ðiều này chứng tỏ sự biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của tác giả là đặc điểm tiêu biểu, đầu tiên của tác phẩm trữ tình. 3.2. Thơ trữ tình phản ánh thế giới khách quan nhằm biểu hiện thế giới chủ quan. Tác phẩm trữ tình biểu hiện cảm xúc chủ quan của nhà thơ nhưng điều đó cũng được xác lập trong mối quan hệ giữa con người và thực tại khách quan bởi vì mọi cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ của con người bao giờ cũng đều là cảm xúc về cái gì, tâm trạng trước vấn đề gì Do đó, hiện tượng cuộc sống vẫn được thể hiện trong tác phẩm trữ tình. Mặc dù thể hiện thế giới chủ quan của con người, tác phẩm trữ tình vẫn coi trọng việc miêu tả các sự vật, hiện tượng trong đời sống khách quan bằng các chi tiết chân thật, sinh động. Như vậy, tác phẩm trữ tình cũng phản ánh thế giới khách quan nhưng chức năng chủ yếu của nó là nhằm biểu hiện những cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ của con người. 4.Đặc điểm của ngôn ngữ thơ trữ tình: 4.1.Ngôn ngữ thơ trữ tình hàm súc, cô đọng Để có một vần thơ lắng đọng, các nhà thơ phải lao động hết mình để lựa chọn ra những ngôn từ thơ tốt nhất diễn tả được cảm xúc tình cảm của mình. Đó là sự gọt giũa về mặt ngôn từ để tạo ra những từ ngữ thơ mà đọc lên người đọc ấn tượng và hiểu thấu nội dung tư tưởng nhà thơ gửi gắm. 4.2. Ngôn ngữ thơ giàu tính nhịp điệu Trong thơ, sự phân dòng của lời thơ nhằm mục đích nhịp điệu, tạo ra nhịp điệu thơ. Cuối mỗi dòng thơ đều có chỗ ngắt nhịp. Tuỳ theo số chữ trong mỗi dòng mà nhịp thơ thể hiện khác nhau.Và theo từng cung bậc tình cảm thì nhà thơ sử dụng thể thơ 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ hoặc dài hơn, hoặc ngắn hơn chen nhau Ngoài ra, trong các thể thơ Việt nam như lục bát, song thất lục bát tứ tuyệt, hát nói là những cấu tạo nhịp điệu đặc biệt, có lưng, vần, chân, lối ngắt nhịp riêng độc đáo. 4.3. Ngôn ngữ thơ giàu tính nhạc, tính hoạ Bằng những âm thanh luyến láy,bằng những từ ngữ trùng điệp,sự phối hợp bằng trắc và cách ngắt nhịp,nhà thơ đã xây dựng nên những câu thơ,những hình tưọng thơ có sức truyền cảm lớn, tạo nên những cung bậc tình cảm tinh tế của người nghệ sỹ. Thơ được xây dựng bằng những hình tượng nghệ thuật có sức gợi cảm lớn. Thi trung hữu hoạ, trong thơ thể hiện những bức tranh hoàn mỹ mà người đọc có thể hình dung khi cảm nhận những vần thơ khắc hoạ. Đó là tính hoạ trong thơ. 4.4.Ngôn ngữ thơ phải có tính biểu hiện: Văn học nói chung, thơ ca nói riêng phản ánh hiện thực cuộc sống qua hình tượng nghệ thuật. Nghĩa là điều mà nhà nghệ sĩ nhận thức, suy tư về 4
  6. cuộc sống luôn được thể hiện một cách gián tiếp. Để làm được điều này người nghệ sĩ đi vào khai thác khả năng biểu hiện của ngôn ngữ. Đó là cách tổ chức sắp xếp ngôn ngữ sao cho từ một hình thức biểu đạt có thể có nhiều nội dung biểu đạt. Đó là quá trình chuyển nghĩa tạo nên lượng ngữ nghĩa kép trong thơ. II- THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ: 1.Thơ trữ tình hiện đại trong chương trình Ngữ văn THCS: Trong nền văn học Việt Nam, chúng ta có thể thấy mảng thơ trữ tình chiếm một vị trí quan trọng và độc tôn. Vì vậy, môn Ngữ văn ở trường THCS có số lượng thơ trữ tình khá lớn trong các lớp 6, 7, 8, 9 gắn liền với các đề tài, chủ đề khác nhau. Với các nhân vật trữ tình khác nhau xoay quanh đời sống tinh thần của con người, diễn tả nội tâm, tâm trạng và những cung bậc tình cảm khác nhau của con người. Chính vì vậy mà thơ trữ tình được đưa vào nhà trường là tất yếu. Vậy chúng ta phải dạy thơ trữ tình như thế nào để học sinh nắm được tâm trạng, cảm xúc, cách thể hiện tình cảm của các nhân vật trữ tình. 2. Thực trạng về việc học thơ trữ tình của học sinh: - Trong chương trình THCS, môn Ngữ văn, một môn học quan trọng và chiếm số tiết khá nhiều trong phân phối chương trình so với các môn học khác. Nhưng nhiều học sinh tỏ ra thơ ơ, ngày càng nhiều học sinh chán học với học tác phẩm văn chương đặc biệt là tác phẩm thơ. Các em chưa tự chủ động tìm hiểu khám phá tác phẩm thơ, thường ít hiểu, ít yêu thơ. Một phần do năng lực cảm thụ của học sinh, một phần do xu thế thời đại, hội nhập toàn cầu đã ảnh hưởng đến nhận thức của phụ huynh học sinh về những môn học thời thượng (Toán, Lý, Hoá, Tin học, Ngoại ngữ), văn chương không có tính năng ứng dụng, tương lai người học không được đảm bảo. Vì vậy, học sinh ngày càng xa rời văn chương. - Việc tự học, tự soạn văn, chuẩn bị cho bài học trên lớp của học sinh còn đối phó. Học sinh không tự nghiên cứu, thậm chí không đọc tác phẩm, để tìm hiểu, khám phá tác phẩm mà chủ yếu chép lại và dựa vào gợi ý hướng dẫn của các loại sách: Để học tốt, bình giảng văn học sách chuẩn kiến thức, những bài văn mẫu Những tài liệu này, vô hình dung, đã làm cho học sinh bỏ rơi sách giáo khoa, học sinh tỏ ra biết đầy đủ nội dung tác phẩm văn chương mà không cần phải nghiên cứu, tự học tự suy nghĩ, liên tưởng cũng có thể đáp ứng được những yêu cầu, phát vấn của thầy cô giáo ở trên lớp. Điều này đã thủ tiêu óc sáng tạo, suy nghĩ của người học, biến học sinh thành những người quen suy nghĩ diễn đạt bằng những ý vay mượn, bằng những lời có sẵn, lẽ ra phải làm chủ tri thức thì lại trở thành nô lệ của sách vở. 3.Thực trạng về giảng dạy của giáo viên: - Giáo viên rất ngại dạy thơ, bởi lẽ dạy thơ rất khó, nếu giáo viên không biết khai thác thơ theo đúng mạch cảm xúc của nhà thơ thì giờ học sẽ trở nên khô khan không tạo được hứng thú học tập của học sinh. - Quá trình giảng dạy của giáo viên phần lớn dựa vào hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa rồi hướng dẫn học sinh đọc và tìm hiểu tìm hiểu. Khi 5