SKKN Phương pháp dạy học sử dụng công nghệ thông tin phát huy mạnh mẽ tư duy sáng tạo và hứng thú của học sinh, nâng cao chất lượng dạy và học

doc 17 trang sangkien 30/08/2022 3041
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Phương pháp dạy học sử dụng công nghệ thông tin phát huy mạnh mẽ tư duy sáng tạo và hứng thú của học sinh, nâng cao chất lượng dạy và học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_phuong_phap_day_hoc_su_dung_cong_nghe_thong_tin_phat_hu.doc

Nội dung text: SKKN Phương pháp dạy học sử dụng công nghệ thông tin phát huy mạnh mẽ tư duy sáng tạo và hứng thú của học sinh, nâng cao chất lượng dạy và học

  1. SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO CÀ MAU TRƯỜNG TH PT KHÁNH HƯNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI : PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN PHÁT HUY MẠNH MẼ TƯ DUY SÁNG TẠO , VÀ HỨNG THÚ CỦA HỌC SINH , NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC Đề tài thuộc lĩnh vực chuyên môn : Sinh học Họ và tên người thực hiện : Phạm Văn Đương Chức vụ, nhiệm vụ đang phụ trách: Giáo viên kiêm tổ trưởng Đơn vị công tác : Trường TH PT Khánh Hưng Khánh Hưng, ngày 10 tháng 4 năm 2009 1
  2. ĐỀ TÀI : PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN PHÁT HUY MẠNH MẼ TƯ DUY SÁNG TẠO , VÀ HỨNG THÚ CỦA HỌC SINH, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC I. ĐẶT VẤN ĐỀ : Định hướng đổi mới PPDH hiện nay là tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, khơi dậy và phát triển năng lực tự học, nhằm hình thành cho học sinh tư duy độc lập, tích cực sáng tạo, nâng cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào hoạt động thực tiễn, tác động đến tình cảm đem lại niềm tin, hứng thú học tập cho học sinh. Trong thời kì bùng nổ của Công nghệ thông tin (CNTT) chúng ta nhất thiết phải cải cách phương pháp dạy học theo hướng vận dụng CNTT và các trang thiết bị dạy học hiện đại phát huy mạnh mẽ tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành và hứng thú học tập của học sinh để nâng cao chất lượng dạy học. Trong năm vừa qua, khả năng ứng dụng CNTT vào công tác giảng dạy môn Sinh học 8 , tôi nhận thấy vẫn còn có những hạn chế sau: - Phần lớn tâm lý giáo viên ngại khó, tuy rất muốn dạy học bằng phương tiện máy chiếu nhưng lại chưa biết hoặc mới biết rất ít về vi tính nên không muốn thiết kế bài giảng điện tử, giáo viên mới chỉ sử dụng tranh ảnh hoặc thay bảng phụ chép đề bài trong qúa trình giảng dạy trên lớp. - Một số bài giảng điện tử còn mang tính chất trình diễn kiến thức, gần như là một “bảng đen” được viết sẵn tất cả nội dung dạy học lên đó. 2
  3. - Cách bố cục mỗi trang trình diễn chưa hợp lí về cỡ chữ, màu chữ, màu nền, tranh ảnh - Còn lạm dụng các hiệu ứng hiển thị gây mất tập trung của học sinh vào nội dung bài giảng. - Diễn giải nhanh quá, khi đưa ra các tình huống trên máy chiếu không đủ thời gian cho học sinh suy nghĩ. - Nhưng điều quan trọng nhất là giáo viên chú ý nhiều đến cách trình chiếu, cách chọn hiệu ứng mà không đầu tư vào kiến thức của bài, các kiến thức thường rập khuôn theo sách giáo khoa nên kết quả thu được sau tiết học thường không cao. Vậy nguyên nhân của những tình trạng trên là do đâu? Trước hết là do quan điểm chưa đúng về việc áp dụng CNTT trong giảng dạy, cho rằng dạy bằng giáo án điện tử không phát huy được trí lực của học sinh, không truyền tải hết được những ý tưởng của giáo viên ; một số giáo viên chưa thực sự đầu tư vào tiết dạy, thực tế học sinh cũng háo hức những tiết học đầu tiên bằng máy chiếu như , nhưng nếu tiết dạy đó chưa đầu tư vào nội dung thì học sinh cũng sẽ chóng nhàm chán vì không hiểu bài và không kịp ghi những ý chính của bài do giáo viên trình diễn quá nhanh . Thứ hai, do giáo viên vẫn chưa nắm bắt được tinh thần của sách giáo khoa, chưa xác định được trọng tâm của bài, còn lệ thuộc nhiều vào sách thiết kế có sẵn, thường đặt những câu hỏi chung chung thiên về tái hiện kiến thức, không có câu hỏi thực sự kích thích tư duy độc lập của học sinh. Nhìn chung giáo viên không chủ động trong giờ dạy mà chăm chăm trình chiếu những gì mình đã chuẩn bị sẵn. Thứ ba là chưa có nguồn kinh phí về việc mua sắm thiết bị, tổ chức học vi tính cho giáo viên do đó “cái khó bó cái khôn”, nhiều giáo viên cũng muốn sử 3
  4. dụng các phương tiện để ứng dụng CNTT nhưng năng lực vi tính còn hạn chế. *Từ những hạn chế trên, chúng ta phải cải cách phương pháp dạy học vận dụng CNTT như thế nào để phát huy mạnh mẽ tư duy sáng tạo kĩ năng thực hành và hứng thú học tập của học sinh để nâng cao chất lượng dạy và học . II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ : Nếu giáo án được chuẩn bị kỹ lưỡng, chu đáo trước khi lên lớp thì nhất định cách dạy của thầy giáo sẽ chủ động, tự tin, linh hoạt và đạt chất lượng cao hơn. Dù thầy, cô đó có tài giỏi, thông tuệ tới đâu đi nữa và phương tiện dạy học có hiện đại đến đâu đi nữa nhưng nếu không soạn giáo án hoặc soạn giáo án qua loa, hời hợt thì nhất định tiết dạy ấy, bài học ấy sẽ không tránh khỏi những lúng túng, bỡ ngỡ và sơ suất và chẳng có gì mới mẻ, sâu sắc hơn so với lần dạy trước về kiến thức, nội dung vì do phụ thuộc quá nhiều vào trí nhớ và kinh nghiệm của mình mà không cập nhật kiến thức, phương pháp mới. Vì vậy ở từng năm học, mỗi thầy, cô giáo đều phải thực hiện nghiêm túc việc soạn giáo án theo quy định các bước lên lớp đã được phổ biến. Trong bài soạn cần chú ý những vấn đề sau: - Xác định mục tiêu của bài học: Trình bày cụ thể mức độ cần đạt được đối với kiến thức, kỹ năng và phát triển tư duy của học sinh. - Lựa chọn các kiến thức cơ bản, cần thiết và cập nhật theo một cấu trúc hợp lý không nhất thiết phải thực hiện tuần tự theo sách giáo khoa. - Chuẩn bị nội dung bài giảng theo hệ thống câu hỏi dưới dạng các vấn đề mà giáo viên nêu ra, để thiết kế câu hỏi, giáo viên phải nắm bắt được tinh thần của bài học, ý đồ của người viết sách. Việc tham khảo những giáo án soạn sẵn, những tài liệu tham khảo là cần thiết nhưng chỉ có tính chất tham khảo chứ không rập khuôn một cách máy móc. Giáo án phải là sản phẩm sáng tạo, trí tuệ, công sức của từng cá nhân và phải được hoàn thiện hơn sau mỗi tiết dạy, trong 4
  5. mỗi giáo án phải thể hiện được phương pháp phù hợp với từng kiểu bài, làm nổi bật được hoạt động giữa thầy và trò. - Lựa chọn các phương pháp và phương tiện gắn với từng nội dung cụ thể giúp học sinh khai thác tự chiếm lĩnh từng đơn vị kiến thức đặt ra. Tuỳ theo nội dung kiến thức của bài để lựa chọn phương tiện thích hợp (không phải nhất thiết bài nào cũng sử dụng PowrPoint). PowrPoint là một phương tiện trình diễn sinh động thông qua sự phong phú của hình ảnh, các dạng sơ đồ, các bài tập trắc nghiệm khách quan Bài giảng sử dụng PowrPoint trình diễn là công cụ hữu hiệu để đặt vấn đề cho bài giảng, phân tích những hiện tượng khó diễn tả bằng lời, đưa ra những câu hỏi tình huống cho bài giảng, những câu hỏi có kèm hình ảnh hay sơ đồ giúp học sinh dễ nắm bắt vấn đề, đưa thêm những thông tin mà giáo viên cần truyền đạt để củng cố kiến thức cho học sinh, tổ chức các hình thức học tập mới Hình ảnh được trình chiếu trên PowrPoint khác với một tranh tĩnh, bên cạnh sự phong phú của những lựa chọn phù hợp, còn có thể mô tả chi tiết và đưa ra lần lượt những chỉ dẫn cần thiết minh hoạ cho bài giảng. Sử dụng PowrPoint để mô phỏng những quá trình Sinh học mà tranh ảnh thường không thể diễn tả được bản chất của hiện tượng. Chẳng hạn về sự điều tiết của mắt, có thể thiết kế để thay đổi đồng thời vị trí của vật khi tiến dần tới mắt người quan sát với sự thay đổi độ tụ của thuỷ tinh thể để ảnh của vật vẫn hiện trên võng mạc. Một trong những ưu điểm của PowrPoint là có thể đưa vào những đoạn video, ảnh flash dùng mô tả hiện tượng Sinh học mà không thể hoặc khó thực hiện thí nghiệm trên lớp . Tóm lại, yêu cầu đặt ra cho việc thiết kế bài giảng điện tử là thiết kế được các hoạt động để hỗ trợ học sinh trong việc tự chiếm lĩnh kiến thức. Các bài 5
  6. giảng điện tử được thiết kế phải là phương tiện hỗ trợ tích cực cho việc đổi mới phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay. Từ kinh nghiệm của bản thân, qua trao đổi với đồng nghiệp, tổ chuyên môn, tôi xin đưa ra một vài kinh nghiệm nhỏ khi giảng dạy bài 49: “Cơ quan phân tích thị giác ” Sinh học lớp 8. Bài giảng gồm các Slide (trang) sau: *Slide 1: Sau khi giới thiệu bài, mục của bài, tôi hướng dẫn học sinh cách khai thác kiến thức từ những câu hỏi (ở bên trái của màn hình) và ghi những nội dung cơ bản của bài (ở bên phải màn hình). Sau mỗi một câu hỏi giáo viên để thời gian (tuỳ theo nội dung câu hỏi) cho học sinh suy nghĩ trả lời, giáo viên nhận xét đánh giá câu trả lời của học sinh, đồng thời trình chiếu nội dung cơ bản lên màn hình. Ngày 6/3/2008 TIẾT 51. BÀI 49. CƠ QUAN PHÂN TÍCH THỊ GIÁC • I. CƠ QUAN PHÂN TÍCH Câu hỏi 1: Một cơ quan phân tích gồm những thành phần nào? Câu hỏi 2: Ý nghĩa của cơ quan Cơ quan Dây TK phân tích đối với cơ thể? Bộ phận phân thụ Cảm tích ở trung - Giúp cơ thể nhận biết được tác ương động của môi trường. Câu hỏi 3: Cơ quan phân tích thị II.CƠ QUAN PHÂN TÍCH THỊ GIÁC giác gồm những thành phần - Cơ quan thụ cảm thị giác (TB thụ nào? cảm trong màng lưới của cầu mắt). - Dây TK thị giác. - Vùng thị giác (Ở thuỳ chẩm) 1 *Slide 2: “Cấu tạo của cầu mắt”. 6
  7. Mục này, qua dự giờ một số đồng nghiệp tôi thấy có hạn chế sau: Giáo viên cho học sinh quan sát “Sơ đồ cấu tạo của mắt” trên Slide (trang) riêng và nêu bài tập trên một Slide khác, vì sợ không kịp thời gian nên học sinh chưa quan sát kỹ được sơ đồ thì giáo viên đã chuyển sang Slide bài tập, do đó học sinh chưa xác định rõ được các thành phần và chức năng của cầu mắt. Từ những tồn tại trên, tôi đã đầu tư suy nghĩ xây dựng cách dạy phần này như sau: Đối tượng học sinh bậc THCS đang nhận thức “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng”, do đó để tìm hiểu cấu tạo và chức năng của cầu mắt, tôi đã thiết kế cả kênh hình và kênh chữ trên cùng một Slide ( khi trình chiếu học sinh vẫn thấy rất rõ cả kênh hình và kênh chữ). Giáo viên trình chiếu đồng thời cả hai sơ đồ và bài tập, hướng dẫn học sinh quan sát sơ đồ, trao đổi nhóm để hoàn chỉnh các thông tin về cấu tạo cầu mắt bằng cách điền các từ thích hợp vào chỗ trống. Sau khi cử đại diện các nhóm báo cáo kết quả, các nhóm khác điều chỉnh, bổ sung, giáo viên mới đưa hiệu ứng đáp án đúng. Sau khi hoàn thành bài tập, gọi một học sinh trình bày cấu tạo của cầu mắt, giáo viên trình chiếu những nội dung cơ bản về cấu tạo của cầu mắt (bên phải màn hình) hướng dẫn học sinh chép vào vở (phải chọn hiệu ứng chậm và lường thời gian để học sinh chép kịp). 7
  8. 1. Cấu tạo của cầu mắt. • Cầu mắt gồm: Bài tập:Hãy quan sát các hình để hoàn chỉnh thông tin sau về mắt: *Màng bọc:. Cầu mắt vận động được là nhờ (1) các cơ vận động mắt - Màng cứng: phía trước là màng giác. .Cầu mắt gồm 3 lớp: lớp ngoài cùng là (2) màng cứng - Màng mạch: Phía trước là lòng đen. có nhiệm vụ bảo vệ phần trong của cầu mắt. Phía - Màng lưới: cóTB nón và TB que. trước của màng cứng là màng giác trong suốt để * Môi trường trong suốt: ánh sáng đi qua vào trong cầu mắt; tiếp đến là lớp -Thuỷ dịch. (3) màng mạch có nhiều mạch máu và các tế bào - Thể thuỷ tinh. sắc tố đen tạo thành 1 phòng tối trong cầu mắt - Dịch thuỷ tinh. (như phòng tối trong máy ảnh); lớp trong cùng là (4) m à n g l ư ớ i trong đó chứa (5) tế bào thụ cảm thị giác bao gồm 2 loại : Tế bào nón và tế bào que. 2 *Slide 3: Tương tự như trên tôi cũng thiết kế kênh hình và kênh chữ trên cùng một Slide. Sau khi hướng dẫn học sinh quan sát “Sơ đồ cấu tạo của màng lưới” tôi nêu câu hỏi 4 (trong Slide 3). Học sinh trình bày cấu tạo trên sơ đồ, lớp góp ý bổ sung, giáo viên kết luận và trình chiếu nội dung cơ bản (bên phải màn hình). Sau đó giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu sự khác nhau giữa tế bào nón và tế bào que trong mối quan hệ với thần kinh thị giác và yêu cầu học sinh giải thích một số hiện tượng qua câu hỏi 5 và câu hỏi 6. Với cách thiết kế như vậy, học sinh luôn được quan sát hình ảnh, sơ đồ, dễ dàng khai thác kiến thức một cách triệt để, điều đó đã phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh, nâng cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề cho học sinh. 8