SKKN Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài văn tự sự trong chương trình Ngữ văn 8 (Tập 1) ở trường THCS Quỳnh Hoa

doc 13 trang sangkien 29/08/2022 8541
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài văn tự sự trong chương trình Ngữ văn 8 (Tập 1) ở trường THCS Quỳnh Hoa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lam_tot_bai_van_tu_su_tr.doc

Nội dung text: SKKN Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài văn tự sự trong chương trình Ngữ văn 8 (Tập 1) ở trường THCS Quỳnh Hoa

  1. Sáng kiến kinh nghiệm Đào Xuân Ngãi Trường THCS Quỳnh Hoa MỤC LỤC A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1.Vị trí của văn tự sự trong môn Ngữ văn. 2. Lí do chọn đế tài. 3. Thực trạng vấn đề. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Tìm hiểu đề (xác định yêu cầu của đề). 2. Viết đoạn văn trong văn bản tự sự. 3. Liên kết đoạn văn trong văn bản tự sự. 4. Yếu tố miêu tả và biểu cảm trong văn bản tự sự C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ 1. Một số lưu ý 2. Kết quả 3. Lời kết D. BÀI HỌC KINH NGHIỆM Trang 1
  2. Sáng kiến kinh nghiệm Đào Xuân Ngãi Trường THCS Quỳnh Hoa A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1.Vị trí của văn tự sự trong môn Ngữ văn: Trong nhà trường nói chung, trong trường THCS nói riêng, Ngữ văn là môn học trang bị cho học sinh những tri thức để đánh gia đúng các vấn đề văn học(bao gồm: tác phẩm, tác giả, các quá trình văn học )có nghĩa là góp phần tạo cho học sinh khả năng khám phá vẻ đẹp của tác phẩm văn học trong việc tiếp nhận cũng như khả năng biết đánh giá đúng đắn, khoa học các hiện tượng. Song song với nhiệm vụ trên là quá trình giúp học sinh hình thành và phát triển khả năng sản sinh văn bản mới ( nói và viết). Làm văn là phân môn hướng tới nhiệm vụ thứ hai này. Nó giúp học sinh hình thành những kĩ năng cần thiết để làm được bài văn. Người học sinh từ tiểu học đến trung học (kể cả vào đại học) đã và sẽ được làm văn theo ba dạng sau đây: Dạng sáng tác văn học như: miêu tả, tường thuật, kể chuyện ( tự sự) và một số thể thơ quen thuộc như : thơ 5 chữ, thơ tứ tuyệt, thơ lục bát Dạng bài nghị luận với hai nội dung chủ yếu là nghị luận xã hội và nghị luận văn học ( trong chương trình ở THCS là ở lớp 7, 8, 9). Dạng văn hành chính công vụ như: đơn từ, biên bản, thông báo, báo cáo, hợp đồng. Đặc trưng cơ bản của nhóm thứ nhất là kích thích trí tưởng tượng phong phú, xây dựng óc quan sát tinh tế cho học sinh. Đặc trưng của nhóm thứ hai là nhằm hình thành và phát triển tư duy lí luận với khả năng lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục. Loại văn hành chính công vụ thì có đặc trưng là khuôn mẫu, công thức. Trong nhà trường phổ thông, nhìn chung không đặt ra việc sáng tác văn học. Tuy nhiên để phù hợp với lứa tuổi học sinh THCS được làm quen với kiểu sáng tác, tạo tiền đề cho các em có thể vận dụng tốt trong quá trình học sau này. Những bài văn hay loại này là những bài văn viết đúng quy cách, chân thật, có những khám phá hồn nhiên về thiên nhiên và đời sống gia đình, xã hội Trong chương trình Ngữ văn THCS, ở lớp 8 học sinh được học văn tự sự từ bài 1 đến bài 10 (chiếm gần 1/3 số bài trong chương trình). Tuy học sinh đã học văn tự sự từ lớp 6 (ở THCS) nhưng vì nhiều lí do nên các em làm loại văn này vẫn chưa tốt. Quan trọng là vậy nhưng là giáo viên dạy Ngữ văn, công tác tại trường THCS Quỳnh Hoa, tôi thấy các em làm bài văn tự sự chưa tốt, còn mắc nhiều lỗi mà nếu giáo viên có thể giúp học sinh khắc phục được thì các em sẽ làm tốt hơn. Những hạn chế trong bài làm văn tự sự của các em một phần do các em, một phần do giáo viên chưa có biện pháp phù hợp giúp các em. Trang 2
  3. Sáng kiến kinh nghiệm Đào Xuân Ngãi Trường THCS Quỳnh Hoa 2. Lí do chọn đề tài: Người giáo viên bao giờ cũng muốn học trò của mình làm được những bài văn hay nhưng đó không phải là một việc dễ. Bài văn hay trước hết phải là viết đúng (đúng theo nghĩa tương đối, nghĩa là trong khuôn khổ nhà trường). Hay và đúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Bài văn hay trước hết phải viết theo đúng yêu cầu của đề bài, đúng những kiến thức cơ bản, hình thức trình bày đúng quy cách Xác định đúng yêu cầu của đề bài là rất cần thiết, bước này giúp học sinh thể hiện đúng chủ đề của bài văn, tránh lạc đề hay lệch đề. Xác định đúng yêu cầu của đề cũng giúp học sinh lập được một dàn ý tốt và do đó cũng tránh được bệnh dài dòng, lan man “dây cà ra dây muống”, “ trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” tạo được sự thống nhất, hài hoà giữa các phần của bài viết. Bên cạnh đó việc viết đúng kiến thức cơ bản cũng vô cùng quan trọng, kiến thức cơ bản là “bột”, “có bột mới gột nên hồ”. Hình thức trình bày là sự thể hiện hình thức bố cục của bài văn trên trang giấy. Một bài văn đúng quy cách là bài văn mà khi nhìn vào tờ giấy, chưa cần đọc đã thấy rõ ba phần: Mở bài, thân bài và kết bài. Muốn thế người viết không chỉ phải chú ý đến nội dung mà hình thức cũng phải rõ. Bài văn tự sự hay, hấp dẫn thì không thể thiếu yếu tố miêu tả và yếu tố biểu cảm. Yêu cầu là vậy nhưng trong thực tế dạy - học tôi thấy bài văn của học sinh chưa đáp ứng được những yêu cầu đó là bao. Bài làm của các em vẫn còn hiện tượng lạc đề, lệch đề do không chú ý đến việc tìm hiểu đề. Đoạn văn trong bài thường sai quy cách. Bên cạnh đó là việc giữa các đoạn văn chưa có sự liên kết. Bài viết của các em rất ít yếu tố miêu tả và biểu cảm. Do đó tôi thấy cần phải tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra giải pháp tốt giúp học sinh làm tốt bài văn tự sự. Qua thời gian tìm tòi và vận dụng, cho đến nay tôi đã tìm được cho mình một cách làm mang lại hiệu quả cao. Trong cách làm đó vấn đề tích hợp có vai trò rất quan trọng. Đó cũng là yêu cầu của dạy học Ngữ văn hiện nay. 3. Thực trạng của vấn đề: Về phía người giáo viên, trước đây khi dạy văn tự sự cho các em, tôi mới chỉ giúp các em nắm bắt được những nội dung cơ bản trong sách giáo khoa. Trong quá trình dạy chỉ dạy văn tự sự ở những tiết học về văn tự sự, chưa tận dụng được thời gian ở các phân môn khác để tích hợp với phần tập làm văn. Đặc biệt chưa chú trọng luyện tập và ra bài tập về nhà cho các em để từ đó hình thành kĩ năng làm bài. Về phía học sinh, do đời sống còn nhiều khó khăn, đa số các em phải lao động giúp đỡ bố, mẹ nên ít có thời gian để đọc các tài liệu tham khảo, mở rộng hiểu biết. Nhiều em gia đình nghèo không có điều kiện mua sách tham khảo cho con em. Vì vậy chỉ có thể nắm bắt được những gì SGK cung cấp. Học văn đòi hỏi viết nhiều (đọc nhiều) nhưng học sinh ở Quỳnh Hoa lại ít có điều kiện cũng như thời gian để luyện tập nên vốn từ nghèo cũng thêm phần khó khăn cho Trang 3
  4. Sáng kiến kinh nghiệm Đào Xuân Ngãi Trường THCS Quỳnh Hoa viết bài. Thêm vào đó, nhiều học sinh chưa chú ý đến việc học, ý thức chưa cao, về nhà không làm bài nên khi làm bài thường vụng về, lúng túng. Khả năng kết hợp yếu tố miêu tả và biểu cảm trong bài văn tự tự còn yếu. Nên bài văn khô khan, không sinh động và hấp dẫn. Trước thực trạng đó mỗi giáo viên dạy Ngữ văn phải tìm biện pháp giúp học sinh nắm và làm tốt bài văn tự sự. Cũng chính từ sự băn khoăn, trăn trở: “Làm sao giúp học sinh làm tốt bài văn tự sự?”. Qua quá trình dạy học, quá trình tìm tòi tôi đã có được những biện pháp giúp học sinh làm tốt bài văn tự sự trong chương trình Ngữ văn 8. Sau đây tôi xin trình bày “ Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài văn tự sự trong chương trình Ngữ văn 8 (tập 1) ở trường THCS Quỳnh Hoa Những biện pháp này được áp dụng ở lớp do tôi dạy lớp 8A. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Tìm hiểu đề (xác định yêu cầu của đề): Kĩ năng tìm hiểu đề là kĩ năng định hướng cho toàn bộ quá trình thực hiện một bài tập làm văn. Do đặc điểm tâm lí lứa tuổi chưa kiên nhẫn, học sinh thường không chú ý đến bước tìm hiểu đề. Vì vậy trong quá trình dạy tôi luôn hướng dẫn học sinh thực hiện thao tác này và nó được lặp đi lặp lại ở mỗi bài viết cũng như trước các đề trong bài học. Để giúp học sinh tìm hiểu đề, trước một đề bài tôi thường yêu cầu học sinh đọc nhiều lần (thậm chí yêu cầu học sinh đọc thuộc đề), lấy bút chì gạch dưới những từ cần chú ý, chép lại đề với những ý có gạch đầu dòng để làm cho nổi bật các yêu cầu của đề. Kết quả của bước tìm hiểu đề phải giúp học sinh xác định được tất cả các yêu cầu của đề bài : - Kiểu bài: tự sự hay miêu tả hay tường thuật hay giải thích, Lời yêu cầu về kiểu bài: theo lối trực tiếp – nói thẳng (như hãy kể ) hay lời yêu cầu gián tiếp – nói vòng (như Em thấy mình đã khôn lớn ) - Đề bài và giới hạn: học sinh cần tìm hiểu rõ qua từng từ ngữ để xác định giới hạn của đề bài. Chỉ một sơ suất nhỏ trong việc xác định giới hạn của đề bài cũng có thể dẫn các em từ tản mạn, xa đề đến lạc đề. Ví dụ1 : cho đề bài: Em hãy kể lại một kỉ niệm sâu sắc thời thơ ấu. Trước đề này có rất nhiều học sinh kể ra hai, ba kỉ niệm, không có kỉ niệm nào được kể một cách đầy đủ. Ví dụ 2: cho đề bài: Cô giáo của em. Trang 4
  5. Sáng kiến kinh nghiệm Đào Xuân Ngãi Trường THCS Quỳnh Hoa Trước đề này một số học sinh kể về cô giáo của mình ở hiện tại chứ không phải là kỉ niệm về một cô giáo mà mình tôn trọng nhất, yêu thương nhất hay một cô giáo mà mình không bao giờ quên. Những học sinh trung bình, yếu, kém thường hay xác định chưa đúng trọng tâm đề bài. Nên phần này cần quan tâm và gọi các đối tượng đó trả lời . Giáo viên ra thêm bài về nhà và kết hợp trong buổi phụ đạo. Ví dụ 1 : Trong buổi học phụ đạo tôi ra đề bài cho học sinh làm: Đề 1: Trong cuộc đời mỗi chúng ta ai cũng có những kỉ niệm đáng nhớ, kỉ niệm đáng nhớ nhất của em ở thời thơ ấu là gì? Đề 2: Em hãy kể lại một kỉ niệm sâu sắc của em trong thời thơ ấu. Yêu cầu trả lời : - Kiểu bài của mỗi đề là gì? - Lời yêu cầu ở mỗi đề là trực tiếp hay giàn tiếp? - Nội dung của đề bài nằm trong giới hạn nào (kể về một hay nhiều kỉ niệm)? - Lưu ý: đọc thật kĩ đề bài, lấy bút chì gạch dưới những từ ngữ quan trọng. Làm xong gọi học sinh trình bày, học sinh khác nhận xét . Giáo viên tổng hợp nhận xét bổ sung * Kiểu bài: - Đề 1 và 2 đều có kiểu bài tự sự. - Đề 1 là đề có yêu cầu gián tiếp, đề 2 có yêu cầu trực tiếp. * Giới hạn của đề bài: kể duy nhất một kỉ niệm, đó là kỉ niệm đáng nhớ nhất ở thời thơ ấu. Từ nội dung đó giáo viên nhắc nhở học sinh: từ bây giờ, trước khi viết một bài văn các em nên tìm hiểu đề bài trước để viết bài văn cho tốt bằng cách thực hiện các yêu cầu như bài tập các em vừa làm. Có thể khái quát thành hai nội dung cơ bản(ta gọi là Tìm hiểu đề): - Xác dịnh kiểu bài. - Xác định giới hạn của đề bài. Ví dụ 2. khi dạy xong bài Xây dựng đoạn văn trong văn bản (tiết 10 – bài 3), giáo viên yêu cầu học sinh: Ngoài việc chuẩn bị để làm bài các em thực hiện trước bước tìm hiểu đề cho các đề có trong phần Viết bài tập làm văn số 1 – văn tự sự. Tới tiết 11 -12, trước khi viết bài giáo viên yêu cầu 1 hoặc 2 học sinh trình bày kết quả việc tìm hiểu đề rồi mới đi vào viết bài. Học sinh trả lời : Trang 5