SKKN Một số biện pháp dạy tác phẩm văn học gắn liền với đời sống trong môn Ngữ văn 9 - THCS

doc 9 trang sangkien 05/09/2022 10400
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp dạy tác phẩm văn học gắn liền với đời sống trong môn Ngữ văn 9 - THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_day_tac_pham_van_hoc_gan_lien_voi_doi.doc

Nội dung text: SKKN Một số biện pháp dạy tác phẩm văn học gắn liền với đời sống trong môn Ngữ văn 9 - THCS

  1. A/- Phần mở đầu I/- Lý do chọn đề tài: So với các môn học khác thì văn học phản ánh theo đặc thù của nó. Hình tượng nhân vật trong tác phẩm là hình ảnh con người ngoài cuộc sống. Xã hội trong tác phẩm là xã hội của con người tập trung ở những mũi nhọn bậc nhất của cuộc sống. Cảm xúc tư tưởng khát vọng thể hiện trong tác phẩm là khát vọng, lý tưởng của người nghệ sĩ. Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học là lời ăn tiếng nói là chắt lọc từ cuộc sống. Vì vậy không có lý do gì giảng dạy văn học tách rời cuộc sống mà đen lại kết quả tốt đẹp cả về nhận thức và hành động. Trái lại nó không những giúp học sinh hiểu được mục đích, chức năng và nhiệm vụ của văn học mà ngay cả việc tìm hiểu, khám phá hình tượng văn học, nội dung tác phẩm cũng không thể nào giải quyết được. Tri thức trong tác phẩm văn học là tri thức về cuộc sống, điều đó là một chân lý. Qua thực tiễn giảng dạy tôi nhận thấy hiện nay dường như giáo viên ít liên hệ ngại tìm hiểu, sưu tầm tư liệu, chất liệu về hiện thức khách quan phản ánh trong tác phẩm. Không có tri thức về đời sống trong tác phẩm, giờ dạy khó có thể trả tác phẩm về với đời sống, đưa các em về với thưc tế đời thường vô cùng sinh động, khó có thể gọi là hay và sâu sắc được. Giờ dạy sẽ khô khan, chung chung mơ hồ không thoát khỏi ra trang sách, phòng học. Thiếu chất liệu đời sống để liên hệ làm sao giúp học sinh thâm nhập vào thế giới hình tượng, thế giới nghệ thuật trong tác phẩm? làm sao giúp các em rung động được với tác phẩm? Như vậy, dạy tác phẩm văn học gắn với đời sống trong môn ngữ văn ở THCS theo tôi là rất cần thiết. Vì chắc chắn rằng, qua chi tiết học các em sẽ hiểu bài hơn và hiểu sâu sắc cuộc sống và xúc cảm về cuộc sống đó. II/- Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu: 1
  2. Năm học 2005 - 2006 tôi được nhà trường phân công dạy Ngữ văn lớp 9 (Chương trình thay sách). Với những suy nghĩ và trăn trở về công việc dạy môn văn phải gắn với đời sống nên phạm vi nghiên cứu của tôi qua đề tài này là: Một số biện pháp dạy tác phẩm văn học gắn liền với đời sống trong môn ngữ văn 9 - THCS. Đối tượng nghiên cứu là học sinh 2 lớp 9A và lớp 9B trường THCS Các Sơn. III/- Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu trong thời gian: Tháng 9 năm 2005 đến tháng 3 năm 2006. B- Phần nội dung: 1- Cơ sở lý luận: Xuất phát từ đặc trưng bộ môn, mỗi môn học phải làm cho học sinh hiểu cuộc sống, yêu cuộc sống, có khả năng cải tạo cuộc sống, xây dựng cuộc sống, thông qua đặc trưng đó. Khác với các môn học khác, phân môn Văn trong môn Ngữ văn vừa là "Lý thuyết" là khoa học, vừa là "cây đời" là cuộc sống. Quá trình sáng tác của nhà văn là quá trình nhạn biết khám phá, sáng tạo. Là quá trình đi từ cuộc sống đến tác phẩm, là quá trình nhào nặn chất liệu cuộc sống thực tiểm tàng bốn bể thông qua trí tuệ và tâm hồn nồng cháy của nhà văn. Việc dạy tác phẩm văn học trong phân môn Văn của ngữ văn không chỉ là thưởng thức văn chương nhưng trước hết lại là thưởng thúc văn chương. Thưởng thức văn chương không giống nhận thức khoa học: Đồng thời nhận thức khoa học là việc cảm thụ khoa nghệ thuật, đồng thời với sự rung động của trái tim chính là sự suy nghĩ của bộ óc, đồng thời với nhận thức, hoạt động ý chí là hoạt động tình cảm. Vì vậy dạy tác phẩm văn học gắn với đời sống theo đặc trung bộ môn, chính là cơ sở làm sống dậy hình tượng văn học, khám phá những vấn đề mấu 2
  3. chốt để phát cao độ giá trị nhận thức, giáo dục và thẩm mỹ, phục vụ tốt nhất yêu cầu giáo dục, giáo dưỡng; điều khiển học sinh, tự giác lĩnh hội hình tượng văn học ấy để từ đó các em nhận thức đúng đắn cuộc đời thức, rung cảm trước cuộc đời thực, tự cải tạo tư tưởng, tình cảm của mình góp phần cải tạo, xây dựng cuộc sống hiện tại và tương lai. 2- Cơ sở thực tiễn: Hiện nay học sinh lớp 9 trường THCS Mai lầm nói riêng và học sinh các trường THCS ở nông thôn nói chung, các em là đối tượng học sinh cuối cấp nên vừa chú tâm cho việc học (học ngày cả, cả đêm). Cuối cấp nên các em rất chú tâm học tập, ngoài giờ học thì các em tranh thủ giúp đỡ gia đình nên các em rất ít vốn sống thực tế mà cuộc sống thig muôn màu muôn vẻ và đang đổi mới từng giờ, từng phút với những thành tựu kỳ diệu của nó. Mặt khác, các tác phẩm văn học được chọn lọc đưa vào chương trình ngữ văn 9 đều là những tác phẩm hay phong phú về thể loại đã phản ánh khá đa dạng sắc màu cuộc sống. Dù các em ở lứa tuổi 14 -15 nếu không mở rộng kiến thức thực tế cho các em thì chắc rằng các em không hiểu nổi không cảm thụ và rung động được. Nó sẽ là điểm "tắc"trong tác phẩm, án ngữ dòng nhận thức và cảm thụ của các em. Hơn nữa qua thực tiễn giảng dạy cua cá nhân tôi và việc dự giờ đồng nghiệp Trường THCS Các Sơn tôi nhận thấy việc đưa chất liệu đời sống vào soi sáng tác phẩm hiện nay còn ít hời hợt, việc liên hệ thực tế đời sống ở cuối bài của giáo viên còn máy móc, gò ép ít có hiệu quả. Trước thực trạng này bản thân tôi đã tìm ra một số biện pháp mong phần nào khắc phục những hạn chế đáng buồn nêu trên. 3- Các biện pháp thực hiện: Dạy tác phẩm văn học gắn với đời sống có nhiều hình thức, thể nghiệm qua 2 lớp 9A và lớp 9B bước đầu đạt kết quả tốt. Đó là biện pháp tái hiện cuộc 3
  4. sống qua giờ giảng Văn (dạy tác phẩm văn học) và biện pháp đưa chất liệu đời sống trong việc liên hệ cuối bài. a) Biện pháp tái hiện cuộc sống trong giờ giảng Văn (dạy tác phẩm văn học): Trong các giờ dạy tác phẩm Văn học (phân môn Văn) của môn Ngữ văn 9 tôi đã chú ý tái hiện một số chi tiết, hình ảnh qua từ ngữ, hình tượng trong mỗi bài văn, bài thơ nhằm giúp các em dễ dàng thâm nhập với thế giới hình tượng, thế giới nghệ thuật trong tác phẩm. Đồng thời đưa các em trở về với thực tế đời thường vô cùng sinh động, giúp cho các em hiểu hơn cuộc sống, cảm xúc về cuộc sống đó. Thật vậy, khi dạy bài thơ "Đồng chí"- Chính Hữu nếu không cho các em biết thời điểm nhà thơ Chính Hữu vào bộ đội ngày 19/12/1946 thì cuối năm 1947 (Anh là chính trị viên Đại đội) cùng đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc, từng phục kích và truy kích địch. Trong chiến dịch vô cùng kham khổ này hầu như lúc nào Chính Hữu cũng mặc trên người một bộ áo cánh, đầu không mũ, chân không giày, ăn uống kham khổ, nhiều đêm phải rải lá khô để nằm chắc chắn dù các em chưa tận mắt chứng kiến nếm trải chiến tranh và nếm trải những gian khổ ấy nhưng chính sự tái hiện chân thực cuộc sống ấy đã làm cho các em xúc động, thấm thía. Mỗi hình ảnh thơ: "Đêm rét chung chăn", "áo anh rách vai ", "quần tôi có nhiều mảnh vá", "chân không giày" trong bài thơ trở nên sống hơn, thực hơn. Các em không chỉ hình dung cuộc sống của những người lính buổi đầu kháng chiến chống pháp như thế nào mà còn có thể cảm thông với bao gian khổ thiếu thốn mà các anh phải chịu đựng. Hay khi phân tích đến 3 câu thơ cuối bài tôi đã chú ý tái hiện hình ảnh thơ: "Đêm nay rừng hoang sương muối" ở chiến khu Việt Bắc những ngày cuối Đông năm 1947. Rừng hoang là cảnh rừng vắng lặng, âm u trong những đêm đông rất lạnh, nhất là những đêm có sương muối. Sương muối là một loại sương đọng lại 4
  5. trên cành cây những hạt trắng như muối rất buốt. Chính nhà thơ đã từng bộc bạch: "Rừng hoang sương muối là một khung cảnh có thật. Sương muối làm buốt tê da như những mũi kim châm và đến lúc nào đó bàn chân tê cứng mất hết cảm giác" tái hiện và cung cấp tư liệu hiện thực của đời sống này giúp các em dễ dàng thâm nhập hình tượng trong câu thơ đồng thời cảm thông và chia sẻ với các anh khi phải chờ giặc trong hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến trường. Qua đó các em hiểu sâu sắc hơn sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội đã giúp các anh gần gũi, gắn bó nhau hơn cùng vượt qua mọi gian khó, thử thách. Khi dạy bài thơ "Viếng lăng Bác" của tác giả Viễn Phương có hai câu thơ trong đó khổ thơ thứ nhất xuất hiện hình ảnh "hàng tre". Và ở hai hình ảnh ấy có một hình ảnh thơ mang nét nghĩa thực và một hình ảnh thơ mang nét nghĩa ẩn dụ. Khi phân tích, tôi giảng cho các em hiểu hình ảnh cụ thể sinh động, gợi cảm của cây tre xanh Việt Nam để rồi giúp các em hiểu về hàng tre trong sương sớm bát ngát bên lăng Người. Sau đó mới cho các em tìm hiểu, phân tích nghĩa bóng trong câu thơ "Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam" ở bài thơ: "Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ" của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có nhiều chi tiết hình ảnh thơ trong bài giảng, nếu không mở rộng kiến thức thực tế cho các em thì các em (những học sinh miền xuôi) khó mà hiểu nổi, khó mà rung động được. Ví như tôi giảng cho các em thấy rằng: ở miền xuôi trẻ em nằm nôi, hát ru là hát đưa nôi. Nhưng ở miền núi - dân tộc Tà Ôi - người mẹ thường địu con sau lưng khi làm việc trong nhà, người nương và lời ru của mẹ là lời ru con ngủ trên lưng. Hay ở chi tiết "Mẹ thương A - kay, mẹ thương làng đói": Các em không chỉ đơn thuần hiểu rằng người mẹ vùng dân tộc thiểu số ây thương con, thương cái làng của mình. Mà phải cho học thấy được trái tim yêu thương mênh mông của người mẹ nghèo đối với con thơ bé bỏng. Không chỉ thương con mẹ còn nặng tình với "làng đói". Cái đói của người dân miền núi thật gay gắt: đói đến ăn củ sắn, củ nâu thay cơm, phải 5
  6. ăn tranh tro thay muối. Qua việc tái hiện chất thực của hình ảnh thơ đó các em sẽ hiểu hơn về người mẹ Tà Ôi. Mẹ nhân hậu, lòng mẹ bao la nặng tình nhà nghĩa xóm. Đối với bài: "Mã Giám Sinh mua Kiều" (trích "Truyện Kiều" của thiên tài Nguyễn Du) là văn bản rất có điều kiện để đối chiếu với thực tế và rất cần phải đối chiếu với thực tế mới phân tích được. Vì thế trong quá trình phân tích tôi đã hướng các em trở lại với thực tế để các em thấy được rằng: Khi đi vấn danh (dạm vợ) chàng rể thường phải ăn mặc đẹp, gọn gàng, sạch sẽ, cử chỉ lịch sự, nói năng lễ phép, khiêm tốn. Có khi nào chàng rể lại đến nhà gái lại tót ngay lên ghế trên ngồi một cách sỗ sàng, oai vệ không? (mà không thèm ngồi ghế dưới). Ghế trên thường dành cho vai vế nào? Vậy thì Mã Giám Sinh là con người nào đây? Như vậy, mỗi bài văn, bài thơ luôn chưúa nhiều điều lạ lẫm đối với các em. nếu như trong mỗi baìo dạy người giáo viên không mở rộng kiến thức thực tế, tái hiện những chi tiết, hình ảnh cuộc sống qua hình tượng ngôn ngữ trong tác phẩm thì giờ dạy sẽ đơn điệu khô khan, sự hiểu biết về cuộc sống qua tác phẩm sẽ mơ hồ và các em rất khó có thể thâm nhập vào thế giới hình tượng, thế giới nghệ thuật trong tác phẩm. b) Đưa chất liệu đời sống trong việc liên hệ ở cuối bài: Đây là một biện pháp cũng rất cần thiết trong quá trình giảng dạy tác phẩm văn học ở lớp 9 THC Qua thực tiễn giảng dạy tôi đã rút ra kinh nghiệm này nhằm khắc phục sự gò ép, tuỳ tiện trong việc liên hệ cuối bài để cho nó thực sự trở thành những phút giảng dạy cần thiết và có ích. Muốn vậy đưa chất liệu đời sống dùng để liên hệ cuối bài ngoài những yêu cầu chung trên còn có giá trị hệ thống hoá kiến thức toàn bài, khẳng định chủ đề, đẩy mạnh xúc cảm học sinh trước một hình tượng ghi dấu ấn thật đậm, có sức vang mãi. Chẳng hạn sau phần tổng kết văn bản "Chuyện người con gái Nam Xương" của tác giả Nguyễn Dữ tôi đã liên hệ thực tế cho các em nghe nhằm tăng thêm xúc cảm ở các em trong những phút cuối. 6