SKKN Giáo dục đạo đức học sinh cá biệt và giảm nguy cơ bỏ học đối với học sinh THCS

doc 18 trang sangkien 31/08/2022 9960
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Giáo dục đạo đức học sinh cá biệt và giảm nguy cơ bỏ học đối với học sinh THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_giao_duc_dao_duc_hoc_sinh_ca_biet_va_giam_nguy_co_bo_ho.doc

Nội dung text: SKKN Giáo dục đạo đức học sinh cá biệt và giảm nguy cơ bỏ học đối với học sinh THCS

  1. Đề tài: Giáo dục đạo đức học sinh cá biệt và giảm nguy cơ bỏ học đối với học sinh THCS Sáng kiến kinh nghiệm: GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH CÁ BIỆT VÀ GIẢM NGUY CƠ BỎ HỌC ĐỐI VỚI HỌC SINH THCS. Người viết : PHẠM THÀNH NGỌC ( Phó Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo) A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài : 1/ Cơ sở lý luận : Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang đi vào chiều sâu và được triển khai trên quy mô lớn, trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cơ chế thị trường (CCTT), nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đang phát huy tác dụng tích cực, tạo nên sự phát triển năng động và thúc đẩy nhịp độ tăng trưởng kinh tế ở nước ta. Nhưng, kinh tế thị trường (KTTT) cũng ngày càng bộc lộ những mặt trái, gây ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống tinh thần, sự cảm thụ văn hóa - nghệ thuật cũng như trong tâm lý - đạo đức của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Những ảnh hưởng tiêu cực đó len lỏi, thẩm thấu vào mọi quan hệ xã hội, làm sai lệch các chuẩn mực giá trị, dẫn tới sự suy thoái về đạo đức ở một bộ phận xã hội, ảnh hưởng xấu tới thế hệ trẻ. Vậy có thể ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy thoái đạo đức đó được không? Nhà trường, gia đình và toàn xã hội có thể chủ động trong một chương trình hành động phối hợp tích cực để thực hiện giáo dục đạo đức, để bảo vệ sự trong sạch, lành mạnh của đời sống đạo đức cho thế hệ trẻ được hay không? Phải chăng đẩy mạnh giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông là góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc đấu tranh bảo vệ định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN)? Như thế, giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông gắn liền với mục tiêu và nhiệm vụ chính trị, với cuộc đấu tranh ý thức hệ hiện nay. Để đem lại câu trả lời cho vấn đề hệ trọng nêu trên, việc nghiên cứu đạo đức và giáo dục đạo đức vào lúc này đang là một đòi hỏi cấp bách, bức xúc. Bấy lâu nay, vấn đề giáo dục đạo đức và giảm nguy cơ bỏ học cho học sinh phổ thông là đề tài nghiên cứu rất quen thuộc của khoa học sư phạm. Tuy nhiên chúng ta cần nhận thức đầy đủ hơn về vấn đề này. Phạm thành Ngọc - Phó Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Krông Búk 1
  2. Đề tài: Giáo dục đạo đức học sinh cá biệt và giảm nguy cơ bỏ học đối với học sinh THCS Có thể nói, chưa bao giờ, vấn đề giáo dục đạo đức được đặt ra với tầm quan trọng, tính cấp thiết và ý nghĩa xã hội rộng lớn như lúc này. Chăm lo cho sự phát triển đạo đức và đời sống tinh thần lành mạnh của cộng đồng xã hội là chăm lo tới tiềm lực phát triển lâu bền của cả một dân tộc. Thực hiện vấn đề giáo dục đạo đức và giảm nguy cơ bỏ học cho học sinh phổ thông tại huyện Krông Búk hiện nay được đặt ra trong điều kiện tình hình còn khó khăn: với trên 30% học sinh là DTTS, học sinh vùng sâu, xa chiếm 50%, điều kiện tiếp cân CNTT còn hạn chế, hộ nghèo vẫn còn nhiều trên địa bàn huyện Một trong những nhiệm vụ cấp bách của GD& ĐT hiện nay là tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh và giảm nguy cơ bỏ học của học sinh được thể hiện trong nghị quyết của Đảng, Luật giáo dục và các văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Luật giáo dục đã xác định: “ Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp cho học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân ( Điều 23-Luật giáo dục). 2/Cơ sở thực tiễn: Gần đây, trên các phương tiện thông tin báo chí, truyền hình đã lên tiếng khá nhiều về hiện tượng học sinh cá biệt (HSCB), học sinh (HS) bỏ học tụ tập băng nhóm, gây gổ đánh nhau, có vụ dẫn đến tử vong. Vấn đề này đã trở thành một mối quan ngại của dư luận, nhất là đối với gia đình và nhà trường. Giáo dục là một khoa học và là một nghệ thuật. Trong đó việc giáo dục, quản lý HSCB và ngăn chặn nguy cơ bỏ học của HS là một vấn đề khá nan giải, phức tạp và hết sức nhạy cảm. Công việc này đã và đang trở thành một thách thức lớn không chỉ riêng ngành giáo dục. Hội nhập kinh tế ngoài mặt tích cực nó còn làm phát sinh những vấn đề mà chúng ta cần quan tâm: Bản sắc văn hóa dân tộc bị đe dọa, hội nhập kinh tế quốc tế đưa vào nước ta những sản phẩm đồi trụy, phản nhân văn, reo rắc lối sống tự do tư sản, làm xói mòn những giá trị đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Hiện nay một số bộ phận thanh thiếu niên có dấu hiệu sa sút nghiêm trọng về đạo đức, nhu cầu cá nhân phát triển lệch lạc, kém ý thức trong quan hệ cộng đồng, thiếu niềm tin trong cuộc sống, ý chí kém phát triển, không có tính tự chủ dễ bị lôi cuốn vào những việc xấu. Trong nhà trường phổ thông nói chung và trường THCS nói riêng, số học sinh vi phạm đạo đức có chiều hướng gia tăng, tình trạng học sinh kết thành băng nhóm bạo hành trong trường học đáng được báo động. Một số CBQL, giáo viên chưa thật sự là tấm gương sáng cho học sinh, chỉ lo chú trọng đến việc dạy tri thức khoa học, Phạm thành Ngọc - Phó Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Krông Búk 2
  3. Đề tài: Giáo dục đạo đức học sinh cá biệt và giảm nguy cơ bỏ học đối với học sinh THCS xem nhẹ môn GDCD, thờ ơ không chú ý đến việc giáo dục tình cảm đạo đức cho học sinh. Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên, qua thực tế công tác chỉ đạo, quản lý bậc học THCS, tôi nhận thấy việc nắm rõ thực trạng và đề ra các giải pháp về công tác giáo dục đạo đức học sinh cá biệt và giảm nguy cơ bỏ học đối với học sinh THCS là một nhiệm vụ hết sức cần thiết của người cán bộ QLGD. Đó là lý do tôi chọn đề tài này. II. Mục đích của đề tài: Đánh giá được đúng thực trạng của công tác giáo dục đạo đức học sinh và giảm nguy cơ bỏ học của học sinh ở trường THCS, thông qua đó tìm ra các giải pháp giáo dục nâng cao hiệu quả giúp cho học sinh cá biệt từng bước hoàn thiện nhân cách để trở thành những người tốt trong xã hội. Phương pháp tiến hành thực hiện đề tài là nghiên cứu một số vấn đề về sơ sở lý luận giáo dục đạo đức, tiến hành điều tra thực trạng của công tác giáo dục học sinh cá biệt và giảm nguy cơ bỏ học của học sinh ở một trường THCS phân tích nguyên nhân, tìm ra những yếu tố liên quan đến công tác giáo dục học sinh cá biệt để từ đó đề ra biện pháp giáo dục cho học sinh cá biệt trong giai đoạn hiện nay. 1.Vận dụng các phương pháp nghiên cứu vào đề tài 1.1. Phương pháp tiếp cận lý luận khoa học Trên cơ sở tiếp cận những kiến thức về tâm lý, giáo dục học và những quan điểm đường lối của Đảng, các văn bản của Bộ giáo dục và Đào tạo về đánh giá xếp loại, khen thưởng và kỷ luật học sinh để làm cơ sở khoa học cho việc triển khai nội dung của đề tài. 1.2. Phương pháp quan sát thực tế Khảo sát thực tế công tác giáo dục giáo dục học sinh cá biệt và giảm nguy cơ bỏ học của học sinh ở 1 số trường THCS toàn huyện trong năm học. Để có số liệu, chất lượng thực tế nhằm đưa ra các giải pháp về việc thực hiện công tác giáo dục học sinh cá biệt và giảm nguy cơ bỏ học của học sinh THCS trong giai đoạn hiện nay. B. PHẦN NỘI DUNG Chương I Cơ sở lý luận khoa học a. Khái niệm học sinh cá biệt * Những biểu hiện chung nhất ở HSCB, HS bỏ học và những tác hại Những HS cá biệt có thói quen lười biếng, hay quay cóp trong học tập, lừa dối cha mẹ, thầy cô, dọa nạt bạn bè, hay trốn học và lảng tránh các hoạt động tập thể Phạm thành Ngọc - Phó Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Krông Búk 3
  4. Đề tài: Giáo dục đạo đức học sinh cá biệt và giảm nguy cơ bỏ học đối với học sinh THCS như: lao động, sinh hoạt Đoàn – Hội – Đội, sinh hoạt ngoại khóa, không để cho các em quay cóp hoặc báo cho thầy cô thì các em sẽ dọa đánh, không trực tiếp đánh thì nhờ người khác đánh. Các em này tiêu xài các khoản phí của bố mẹ đưa nộp cho nhà trường, giả mạo chữ ký của bố mẹ và sổ liên lạc, giấy xin phép, Những học sinh cá biệt có tính giảm sút phổ biến trong tất cả các lĩnh vực, trừ những lĩnh vực gắn liền với những nhu cầu trái với xã hội, trái với đạo đức. Một học sinh hay ngủ gật, lười chép bài, học bài nhưng lại tỏ ra rất khéo léo, nhanh trí trong việc giở những trò tinh nghịch với thầy cô, bè bạn. Những HS này hay xem thường, trêu ngươi, khiêu khích trước các thầy cô giáo, cha mẹ, bạn bè để nhằm thỏa mãn những nhu cầu tinh nghịch được xếp sẵn trong đầu óc. Chúng thường đánh mất lòng tự trọng, xấu hổ và trở nên chai lì khác thường. Tùy theo đối tượng tiếp xúc mà chúng có những thái độ, phản ứng một cách gay gắt, thô bạo. Những HSCB thường hay vi phạm nội quy, kỷ luật nhưng chúng không dễ dàng nhận ngay mà phải nhiều lần vặn hỏi với đầy đủ những lí lẽ chứng cứ thì chúng mới chấp nhận. Chúng cho việc nói dối, giả tạo là chuyện bình thường. Ở những HSCB uy tín của cha mẹ, thầy cô bị thay thế bằng uy tín của những kẻ cầm đầu, những kẻ côn đồ, hung hãn, liều lĩnh, những “đại ca”, chính điều này các em HSCB dễ dàng rơi vào những cạm bẫy, sai khiến, xúi giục của các “đàn anh”. Và con đường dẫn đến bỏ học, tụ tập băng nhóm, cờ bạc, trấn lột, trộm cắp, tổ chức gây gổ đánh nhau, vi phạm pháp luật dẫn đến tù tội là điều không tránh khỏi. Thực tế các trường đã phát hiện và xử lý những vụ trấn lột, trộm cắp, gây gổ đánh nhau của hs, phần lớn là do sự sai bảo, xúi giục của những kẻ cầm đầu mà chúng thường tôn là “đàn anh”. Một điều dễ nhận thấy ở những HSCB, học sinh bỏ học là cách nói năng, đi đứng, ăn mặc, hành động rất khác thường, luôn tạo sự chú ý đối với người khác. Có thể nói, những tác hại do các em HSCB, những học sinh bỏ học gây ra là không nhỏ và thậm chí là khá nghiêm trọng. Nó làm ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục chung, phong trào thi đua của nhà trường, trật tự trị an xã hội, hạnh phúc gia đình và nghiêm trọng hơn là ảnh hưởng trực tiếp đến tương lai, cuộc sống của các em sau này. b. Những nguyên tắc giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt: Phải đảm bảo sự nhất trí cao về yêu cầu giáo dục đạo đức cho HS cá biệt của những thành viên trong nội bộ nhà trường và sự thống nhất phối hợp giáo dục học sinh cá biệt giữa nhà trường, gia đình và xã hội. c. Các phương pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường THCS: 1. Phương pháp thuyết phục: Phạm thành Ngọc - Phó Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Krông Búk 4
  5. Đề tài: Giáo dục đạo đức học sinh cá biệt và giảm nguy cơ bỏ học đối với học sinh THCS Là những phương pháp tác động vào lý trí tình cảm của học sinh để xây dựng những niềm tin đạo đức, gồm các nội dung sau: - Giảng giải về đạo đức: được tiến hành trong giờ dạy môn giáo dục công dân cũng như trong các giờ học môn khác, giờ sinh hoạt lớp, sinh hoạt dưới cờ - Nêu gương người tốt, việc tốt bằng nhiều hình thức như: nói chuyện, kể chuyện, đọc sách báo, mời những người có gương phấn đấu tốt đến nói chuyện, nêu gương tốt của giáo viên và học sinh trong trường. - Trò chuyện với học sinh hoặc nhóm học sinh để khuyến khích động viên những hành vi cử chỉ đạo đức tốt của các em, khuyên bảo, uốn nắn những mặt chưa tốt. 2. Phương pháp rèn luyện Là những phương pháp tổ chức cho học sinh hoạt động để rèn luyện cho các em những thói quen đạo đức, thể hiện được nhận thức và tình cảm đạo đức của các em thành hành động thực tế: - Rèn luyện thói quen đạo đức thông qua các hoạt động cơ bản của nhà trường: dạy học trên lớp, lao động, hoạt động xã hội đoàn thể và sinh hoạt tập thể. - Rèn luyện đạo đức thông qua các phong trào thi đua trong nhà trường là biện pháp tác động tâm lý rất quan trọng nhằm thúc đẩy các động cơ kích thích bên trong của học sinh, làm cho các em phấn đấu vươn lên trở thành người có đạo đức tốt, vì vậy nhà trường cần tổ chức các phong trào thi đua và động viên học sinh tham gia tốt phong trào này. - Rèn luyện bằng cách chuyển hướng các hoạt động của học sinh từ hoạt động có hại sang hoạt động có ích, phương pháp này dựa trên đặc tính ham hoạt động của trẻ và được dùng để giáo dục học sinh bỏ một thói hư xấu nào đó bằng cách gây cho học sinh hứng thú với một hoạt mới bổ ích, lôi kéo trẻ ra ngoài những tác động có hại. 3.Phương pháp thúc đẩy Là phương pháp dùng những tác động có tính chất “ cưỡng bách đạo đức bên ngoài ” để điều chỉnh, khuyến khích những “ động cơ kích thích bên trong” của học sinh nhằm xây dựng đạo đức cho học sinh. - Những nội quy, quy chế trong nhà trường vừa là những yêu cầu với học sinh, vừa là những điều lệnh có tính chất mệnh lệnh đòi hỏi học sinh tuân theo để có những hành vi đúng đắn theo yêu cầu của nhà trường. - Khen thưởng: là tán thành, coi trọng, khích lệ những cố gắng của học sinh làm cho bản thân học sinh đó vươn lên hơn nữa và động viên khuyến khích các em khác noi theo. - Phạm thành Ngọc - Phó Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Krông Búk 5