Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh Lớp 4

doc 25 trang sangkien 31/08/2022 4940
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_to_chuc_day_cac_dang_bai_t.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh Lớp 4

  1. Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp4 A. Phần Mở đầu I. Lý do chọn đề tài Qua quá trình giảng dạy trong nhà trường Tiểu học, nhất là một số năm gần đây, tôi thường xuyên được nhà trường phân công nhiệm vụ chủ nhiệm và giảng dạy lớp 4, tôi thấy vốn kiến thức về Từ và Câu của các em còn hạn chế. Các em nắm bắt khái niệm còn mơ hồ , dẫn đến nhiều sai sót, nhầm lẫn trong quá trình làm bài. Với suy nghĩ: Làm thế nào để các em dễ dàng phát hiện ra kiến thức mà không bị nhầm lẫn? Tôi đã quyết định đi sâu tìm hiểu và xây dựng đề tài: Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4. II. Mục đích nghiên cứu Với đề tài này mục đích nghiên cứu chính là tìm phương pháp tổ chức thích hợp nhất trong quá trình dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu. Từ đó vận dụng linh hoạt vào hướng dẫn rèn kỹ năng làm các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh một cách hiệu quả nhất. III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và thời gian thực hiện đề tài 1. Đối tượng: 32em học sinh lớp 4D. 2. Phạm vi nghiên cứu: Tìm hiểu tình hình học phân môn Luyện từ và câu trong môn Tiếng việt lớp 4. Thực hành xác định phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu. Đề xuất một số biện pháp thực hiện trong khi dạy học sinh dạng bài này. 3. Thời gian thực hiện đề tài: Năm học 2011- 2012. . IV. Phương pháp nghiên cứu. 1. Phương pháp nghiên cứu lý luận (đọc tài liệu). 2. Phương pháp phân tích tổng hợp. 3. Phương pháp điều tra,thống kê. 4. Phương pháp thực nghiệm, kiểm chứng. 5. Phương pháp đàm thoại, gợi mở. Người thực hiện : Nguyễn Thị Phương Anh - Trường Tiểu học Khai Thái 1
  2. Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp4 6. Phương pháp thực hành. 7. Phương pháp đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm. V. Tiến trình nghiên cứu. 1. Trong quá trình giảng dạy, tôi tiếp xúc, gần gũi với học sinh và hiểu tình trạng giải quyết làm các bài tập Luyện từ và câu học sinh trong lớp . 2. Đề ra phương hướng để nâng cao chất lượng làm các bài tập Luyện từ và câu có hiệu quả hơn. 3. Dạy thực nghiệm, áp dụng trên lớp đối chứng, phân tích các kết quả bằng số liệu thống kê. B. Nội dung I. Cơ sở lí luận Nhận thức được tầm quan trọng của Tiếng Việt trong sự nghiệp giáo dục con người. Từ xa xưa ông cha ta đã sử dụng nó một cách tự giác nhằm để giáo dục trẻ nhỏ. Khi chưa có nhà trường, trẻ được giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội. Từ thuở nằm nôi, các em được bao bọc trong tiếng hát ru của mẹ, của bà, lớn lên chút nữa những câu chuyện kể có tác dụng to lớn, là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn trẻ, rèn luyện các em thành con người có nhân cách, có bản sắc dân tộc góp phần hình thành con người mới, đáp ứng yêu cầu của xã hội đối với những thành viên của mình. Cùng với sự phát triển của xã hội, giáo dục nhà trường xuất hiện như một điều tất yếu, đón bước thiếu nhi cắp sách tới trường. Cả thế giới đang mở trước mắt các em. Kho tàng văn minh nhân loại được chuyển giao từ những điều sơ đẳng nhất. Quá trình giáo dục được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi, tất cả các môn học. Điều đó thể hiện việc cung cấp vốn từ cho học sinh là rất cần thiết và nó có thể mang tính chất cấp bách nhằm “đầu tư” cho học sinh có cơ sở hình thành ngôn ngữ cho hoạt động giao tiếp cũng như chiếm lĩnh nguồn tri thức mới trong các môn học khác. Tầm quan trọng đó đã được rèn giũa luyện tập nhuần nhuyễn trong quá trình giải quyết các dạng bài tập trong môn Luyện từ và câu lớp 4. II. Cơ sở thực tiễn. Người thực hiện : Nguyễn Thị Phương Anh - Trường Tiểu học Khai Thái 2
  3. Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp4 Việc giải quyết các dạng bài tập Luyện từ và câu lớp 4 có hiệu quả đặt ra cho các Giáo viên Tiểu học là một vấn đề không phải đơn giản. Qua thực tế dạy tôi đã gặp phải không ít những khó khăn. Bởi đây là chương trình thay sách lớp 4 mới. Cùng tồn tại với nó là từ ngữ và ngữ pháp của chương trình cải cách đều đảm nhiệm cung cấp vốn từ cho học sinh, việc hướng dẫn làm các bài tập Luyện từ và câu mang tính chất máy móc, không mở rộng cho học sinh nắm sâu kiến thức của bài. Về phía học sinh, làm các bài tập chỉ biết làm mà không hiểu tại sao làm như vậy, học sinh không có hứng thú trong việc giải quyết kiến thức. Do vậy việc tổ chức cho học sinh trong các giờ giải quyết các bài tập Luyện từ và câu là vấn đề trăn trở cho các giáo viên và ngay bản thân tôi. Từ những lý do khách quan và chủ quan đã nêu trên, thông qua việc học tập, giảng dạy trong những năm qua, tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu sâu hơn về phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4, nhằm tìm ra được phương pháp, hình thức tổ chức thích hợp nhất, vận dụng tốt nhất trong quá trình giảng dạy của mình. Vì điều kiện, khả năng nghiên cứu có hạn tôi xin trình bày kết quả nghiên cứu của mình thông qua đề tài “Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4”. III. Thực trạng dạy – học các dạng bài tập “Luyện từ và câu”. 1. Đối với chương trình sách giáo khoa. Số tiết Luyện từ và câu của sách giáo khoa lớp 4 gồm 2 tiết/tuần. Sau mỗi tiết hình thành kiến thức là một số các bài tập củng cố bài. Mà việc xác định phương pháp tổ chức cho một tiết dạy như vậy là hết sức cần thiết. Việc xác định yêu cầu của bài và hướng giải quyết còn mang tính thụ động, chưa phát huy triệt để vốn kiến thức khi luyện tập, thực hành. 2. Đối với giáo viên. - Phân môn “Luyện từ và câu” là phần kiến thức khó trong khi hướng dẫn học sinh nắm được yêu cầu và vận dụng vào việc làm các bài tập nên dẫn đến tâm lý giáo viên ngại bởi việc vận dụng của giáo viên còn lúng túng gặp khó khăn. - Giáo viên một số ít không chịu đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu để khai thác kiến thức và tìm ra phương pháp phù hợp với học sinh, lệ thuộc vào đáp án, gợi ý dẫn đến học sinh ngại học phân môn này. - Cách dạy của một số giáo viên còn đơn điệu, lệ thuộc máy móc vào sách giáo khoa, hầu như ít sáng tạo, chưa thu hút lôi cuốn học sinh. Người thực hiện : Nguyễn Thị Phương Anh - Trường Tiểu học Khai Thái 3
  4. Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp4 - Một số giáo viên chưa quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ cho học sinh, giúp học sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về Tiếng Việt. - Thực tế trong trường tôi công tác, chúng tôi thường rất tích cực đổi mới phương pháp dạy sao cho có hiệu quả nhất ở môn học này. Đồng thời là tiền đề trong việc phát triển bồi dưỡng những em có năng khiếu. Nhưng kết quả giảng dạy và hiệu quả còn bộc lộ không ít những hạn chế. 3. Đối với học sinh. Hầu hết học sinh chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của phân môn “Luyện từ và câu” nên chưa dành thời gian thích đáng để học môn này. Nhiều học sinh chưa nắm rõ khái niệm của từ, câu Từ đó dẫn đến việc nhận diện phân loại, xác định hướng làm bài lệch lạc. Việc xác định còn nhầm lẫn nhiều. Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đầu bài, thường hay bỏ sót, làm sai hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài. Thực tế cho thấy nhiều học sinh khi hỏi đến lý thuyết thì trả lời rất trôi chảy, chính xác, nhưng khi làm bài tập thực hành thì lúng túng và làm bài không đạt yêu cầu. Điều đó thể hiện học sinh nắm kiến thức một cách máy móc, thụ động và tỏ ra yếu kém thiếu chắc chắn. Do vậy ngay khi dạy tới phần từ ghép, từ láy Tôi đã tiến hành khảo sát học sinh lớp 4D bằng bài tập sau: Đề bài: Cho đoạn văn sau: Biển luôn luôn thay đổi tùy theo màu sắc mây trời. Trời xanh thẳm, biển cũng thẳm xanh, như dâng cao lên chắc nịch. Trời rải mây trắng nhạt, biển mơ màng dịu hơi sương. Trời âm u mây mưa, biển xám xịt, nặng nề. Trời ầm ầm dông gió, biển đục ngầu giận dữ. Như một con người biết buồn vui, biển lúc tẻ nhạt, lạnh lùng, lúc sôi nổi, hả hê, lúc đăm chiêu, gắt gỏng. a. Tìm từ ghép trong các từ in nghiêng ở đoạn văn trên, rồi xếp vào hai nhóm: từ ghép có nghĩa tổng hợp và từ ghép có nghĩa phân loại. b.Tìm từ láy trong các từ in nghiêng ở đoạn văn trên, rồi xếp vào ba nhóm: từ láy âm đầu; từ láy vần; từ láy cả âm và vần. Qua khảo sát ở lớp tôi có 32 học sinh, kết quả khảo sát như sau: Giỏi Khá Trung bình Yếu SL % SL % SL % SL % 4 12,5 6 18,7 15 46,9 7 21,9 Người thực hiện : Nguyễn Thị Phương Anh - Trường Tiểu học Khai Thái 4
  5. Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp4 Điều đáng nói ở đây là có nhiều em chưa biết xác định từ ghép, từ láy, trong quá trình làm học sinh chưa biết trình bày khoa học rõ ràng, câu trả lời chưa đầy đủ. Qua giảng dạy tôi nhận thấy kết quả chưa cao là do nguyên nhân cả hai phía: Người dạy và người học. Do vậy tôi rất cần phải trau dồi kiến thức tìm ra phương pháp đổi mới trong hướng dẫn giảng dạy để khắc phục thực trạng trên, để kết quả dạy học được nâng lên, thu hút sự chú ý của học sinh vào hoạt động học. Đặc biệt là gây hứng thú cho các em khi học phân môn Luyện từ và câu. 4. Một số dạng bài tập “Luyện từ và câu” điển hình. + Phân tích cấu tạo của tiếng. + Tìm các từ ngữ, thành ngữ, tục ngữ nói về chủ đề. + Giải nghĩa từ ngữ, thành ngữ, tục ngữ. + Tìm lời khuyên trong các câu tục ngữ, ca dao. + Đặt dấu chấm phẩy vào đoạn văn cho phù hợp. + Tìm từ đơn, từ phức và đặt câu với từ tìm được + Tìm từ ghép, từ láy và đặt câu với từ đó. + Phân biệt động từ, danh từ, tính từ trong đoạn văn. + Phân biệt các kiểu câu chia theo mục đích nói, tác dụng của nó. + Viết thêm trạng ngữ cho câu. + Xác định bộ phận chính ( CN, VN ) , bộ phận phụ (TN ) trong câu IV. Biện pháp nghiên cứu. Với đặc trưng của môn “Luyện từ và câu” cùng các mâu thuẫn giữa yêu cầu của xã hội, nhu cầu hiểu biết của học sinh với thực trạng giảng dạy của giáo viên, việc học của học sinh trường tôi, đồng thời để củng cố nâng cao kiến thức, kỹ năng làm các bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4. Tôi đã nghiên cứu và đi sâu vào một số vấn đề sau: 1. Nắm vững kiến thức cần ghi nhớ ở mỗi bài. 2. Nghiên cứu kĩ nội dung cần giảng dạy. 3. Tổ chức giảng dạy theo trình độ học tập của học sinh. 4. Cung cấp một số mẹo để học sinh dễ nhớ bài. 5. Thiết kế trò chơi để củng cố bài và gây hứng thú học tập cho học sinh. Người thực hiện : Nguyễn Thị Phương Anh - Trường Tiểu học Khai Thái 5