Sáng kiến kinh nghiệm Phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong bộ môn Sinh học 8
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong bộ môn Sinh học 8", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_phat_huy_tinh_tich_cuc_hoc_tap_cua_hoc.doc
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong bộ môn Sinh học 8
- Phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong bộ môn Sinh học 8 trường THCS Nguyễn Trãi I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài. Với những yêu cầu của xã hội đối với giáo dục, mục tiêu dạy học không chỉ là những yêu cầu thông hiểu, ghi nhớ, tái hiện kiến thức và lặp lại đúng, thành thạo các kĩ năng như trước đây, mà còn đặc biệt chú ý đến năng lực nhận thức, năng lực tự học của học sinh. Với quan điểm dạy học tích cực có thể hiểu: "phương pháp dạy học là cách thức, là con đường, là hệ thống và trình tự các hoạt động giữa giáo viên và học sinh, được giáo viên sử dụng để tổ chức chỉ đạo và hướng dẫn học sinh tự lực và tích cực đạt tới kiến thức, rèn luyện và phát triển kỹ năng và các năng lực nhận thức cũng như góp phần hình thành các phẩm chất nhân cách mà mục tiêu dạy học đề ra". Trong xu thế chung của dạy học hiện nay, người ta coi dấu hiệu cơ bản của phương pháp là tính chất tổ chức chỉ đạo hoạt động nhận thức của giáo viên đối với học sinh. Mỗi phương pháp đảm bảo một tính chất xác định hoạt động nhận thức của học sinh, tiếp nhận một cách chủ động các tri thức do giáo viên truyền đạt hay độc lập tìm tòi, nghiên cứu để lĩnh hội tri thức. Giáo viên chỉ giúp học sinh định hướng vấn đề và chịu trách nhiệm cố vấn trong quá trình học tập của các em. Tuy nhiên lựa chọn phương pháp nào không do ý muốn chủ quan của giáo viên quyết mà phải xuất phát từ: - Mục tiêu đào tạo là hình thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh tạo những tiền đề để các em trở thành “người lao động có tri thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo ” . - Mục đích lí luận dạy học là nhằm gây ý thức, động cơ học tập, tri giác tài liệu mới hay củng cố, ôn tập, kiểm tra. - Nội dung bài học thuộc thành phần kiến thức nào? Là kiến thức giải phẩu hay kiến thức sinh lí, sinh thái hoặc kiến thức vệ sinh. - Đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi. Ở lứa tuổi học sinh lớp 8 kinh nghiệm sống còn ít, vốn hiểu biết còn nghèo nàn, các biểu tượng tích luỹ còn hạn chế, các em còn nặng về tư duy hình tượng cụ thể, tư duy thực nghiệm thì việc xây dựng các khái niệm đòi hỏi phải lấy "trực quan" làm điểm tựa. Lê Thị Ngọc Kiêm
- Phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong bộ môn Sinh học 8 trường THCS Nguyễn Trãi - Điều kiện cơ sở vật chất thiết bị của bộ môn trong nhà trường khá đầy đủ và hiện đại. Sau khi xem xét cân nhắc, dựa vào các cơ sở nêu trên và qua kinh nghiệm giảng dạy tại trường THCS tôi mới quyết định chọn đề tài "Phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong bộ môn sinh học 8" đạt hiệu quả và chất lượng cao trong dạy học. Phần II. NỘI DUNG 1. Những vấn đề chung: Môn cơ thể người và vệ sinh là môn khoa học thực nghiệm mà phương pháp chủ yếu là quan sát và thí nghiệm. Như ta đã biết con người có nguồn gốc từ động vật thuộc lớp thú nên cấu tạo cơ thể và các hoạt động sinh lí về đại thể giống với động vật thuộc lớp thú. Do đó người ta thường tìm hiểu cấu tạo và hoạt động sinh lí của phần lớn các cơ quan, hệ cơ quan trên cơ thể động vật để tìm hiểu về con người.Trong dạy học môn này cho học sinh quan sát các mẫu vật tự nhiên lấy từ động vật (tim, phổi, thận, não ) để nguyên hoặc mỗ sẽ để tìm hiểu hình thái (hình dạng, kích thước, màu sắc), giải phẫu, kết hợp với tranh vẽ mô hình các cơ quan, hệ cơ quan của người. “Con ngưới” là đối tượng nghiên cứu của Sinh học 8 ở trường phổ thông, một đối tượng gần gủi với học sinh là bản thân các em, là bạn bè xung quanh nên các em có thể có những hiểu biết thực tế liên quan đến đời sống đến hoạt động hàng ngày của mình. Do đó, giáo viên có thể khai thác những vốn hiểu biết đó trong quá trình dạy học bằng phương pháp hỏi - đáp gợi mở, hoặc về phía học sinh có thể dùng những hiểu biết khoa học để tìm hiểu, giải thích những hiện tượng thường gặp trong đời sống. Chẳng hạn: Vì sao khi hoạt đông lao động hoặc chơi thể thao, nhịp hô hấp và nhịp tim lại tăng? Hoặc giải thích câu "Trời nóng chống khát; trời mát chống đói” Nội dung Sinh học 8 có nhiều mối liên hệ với chương trình SH7. Do đó quá trình dạy học cần quán triệt tính kế thừa của các kiến thức trong việc xây dựng các khái niệm mới và phát triển các khái niệm có tính chất đại cương (cấu tạo tế bào của Lê Thị Ngọc Kiêm
- Phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong bộ môn Sinh học 8 trường THCS Nguyễn Trãi cơ thể, tính thống nhất giữa cấu trúc và chức năng, giữa các hệ cơ quan trong cơ thể và giữa cơ thể với môi trường ) 2. Phương pháp giảng dạy: - Trong dạy học Sinh học 8 ở trung học cơ sở thì phương pháp trực quan và phương pháp thực hành đi theo con đường tìm tòi, nghiên cứu, tỏ ra có nhiều ưu thế trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo, lại phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý học sinh ở lứa tuổi 13-14, đồng thời cũng thể hiện được các phương pháp đặc thù của các bộ môn khoa học tương ứng. - Bên cạnh quan sát và thí nghiệm được sử dụng trong nhóm phương pháp trực quan và thực hành thì phương pháp đàm thoại, tím tòi trong nhóm phương pháp dùng lời cũng được vận dụng phổ biến trong dạy học sinh học 8, nhằm khai thác những vốn kiến thức mà các em đã tích luỹ trong chương trình động vật, những hiểu biết thực tế trong đời sống của bản thân của các em hoặc vận dụng những kiến thức về giải phẩu và sinh lí người để tìm hiểu các biện pháp vệ sinh có liên quan đến việc bảo vệ và tăng cường sức khoẻ cho bản thân và cộng đồng. - Nội dung chủ yếu của chương trình cơ thể người và vệ sinh ở THCS bao gồm các kiến thức về cấu tạo và hoạt động sinh lí của các cơ quan và các hệ cơ quan trong cơ thể người. Trên cơ sở đó đề cập đến các kiến thức vệ sinh cùng các biện pháp rèn luyện cơ thể, bảo vệ và tăng cường sức khỏe, phòng chống bệnh tật. Dựa vào các loại kiến thức của chương trình đưa ra mà phân thành các dạng phương pháp dạy học sau: 2.1 Phương pháp dạy các kiến thức hình thái, giải phẫu: ❖ Vai trò của các phương tiện trực quan trong dạy học các kiến thức hình thái, giải phẩu. Dạy các kiến thức hình thái, giải phẫu cần coi trọng nguyên tắc trực quan. Vận dụng nguyên tắc này GV thường sử dụng các phương tiện trực quan như: - Các vật thật bao gồm các mẫu tươi, mẫu ngâm, các tiêu bản hiển vi. - Các vật tượng hình như mô hình, tranh vẽ, các hình chụp, hình vẽ trên bảng hoặc các sơ đồ cấu tạo, phim đèn chiếu Lê Thị Ngọc Kiêm
- Phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong bộ môn Sinh học 8 trường THCS Nguyễn Trãi Trong các loại phương tiện trên thì mẫu tươi có nhiều ưu điểm hơn cả. Nó cho phép học sinh hiểu rõ hình dạng, màu sắc và kích thước thực của các đối tượng quan sát đôi khi còn cho các em thấy rõ qua cảm giác, xúc giác (sờ, nắn) về tính chất của đối tượng nghiên cứu (độ cứng, mềm, trơn, nhẵn hay gồ ghề ) nhằm gây hứng thú yêu thích môn học. Chẳng hạn, qua nghiên cứu một mẫu tim lợn tươi, bằng sờ nắn các thành cơ của các ngăn tim, các em có thể nhận biết thành cơ của các tâm nhĩ mỏng hơn so với thành cơ các tâm thất, thành của tâm thất trái dày hơn thành của tâm thất phải. Nếu không có được mẫu tươi, thì mẫu ngâm cũng vẫn là vật thật, có tác dụng tốt trong giờ dạy, đảm bảo học sinh có được biểu tượng khá chính xác về đối tượng nghiên cứu. Tất nhiên, mẫu ngâm khó giữ được màu sắc tự nhiên nhưng lại có ưu điểm là được xử lí tốt về mặt sư phạm, thể hiện được rõ những đặc điểm cấu tạo cần quan sát. Tuy nhiên, không phải mọi vật đều đáp ứng được những yêu cầu sư phạm của một số đồ dùng học tập. Có những vật thật quá nhỏ khó quan sát. Muốn cho học sinh có được một ý niệm về sự tinh vi, phức tạp của kích thước thực của chúng như cấu tạo của cơ quan tai trong, màng lưới và điểm mù của cầu mắt, cấu tạo của niêm mạc ruột với các tế bào lông ruột thì phải kết hợp với việc sử dụng mô hình. Nhiều khi vật thật, mô hình không cho phép đi sâu vào cấu tạo chi tiết, cấu trúc hiển vi của các cơ quan, lúc này tranh vẽ sẽ bổ sung tốt cho những hạn chế trên. Đặc biệt là loại tranh “phân tích” và “tranh liên hoàn” cho phép đi sâu vào các mức độ cấu trúc khác nhau của các cơ quan đó, hoặc đi sâu vào cấu trúc chi tiết của các bộ phận quan trọng, tạo điều kiện cho việc tìm hiểu chức năng được thuận lợi. Song các vật thật, mô hình hoặc tranh vẽ, ảnh chụp phóng to thường là phức tạp khiến học sinh khó hình dung được những nét cơ bản trong cấu trúc, trong trường hợp đó sử dụng các sơ đồ câú trúc sẽ có tác dụng khắc sâu những đặc điểm cấu trúc của đối tượng nghiên cứu, đồng thời làm phát triển tư duy trừu tượng, tư duy khái quát của học sinh. Ngoài ra hình vẽ trên bảng của giáo viên cũng là một phương tiện trực quan có giá trị sư phạm cao, được sử dụng kết hợp với giảng giải, giúp học sinh theo dõi một cách dễ dàng. Lê Thị Ngọc Kiêm
- Phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong bộ môn Sinh học 8 trường THCS Nguyễn Trãi Đặc biệt, cơ thể người cũng là một phương tiện trực quan sống cần được khai thác trong quá trình dạy các kiến thức hình thái, giải phẫu. Chẳng hạn, mắt với màng giác, mống mắt, con ngươi; lưỡi với các gai vị giác, da với các sản phẩm của da (lông, móng); tai ngoài các chi, xương đai, các loại khớp, các bắp cơ có thể quan sát trực tiếp trên cơ thể mình hoặc bạn. ❖ Phương pháp sử dụng các phương tiện trực quan trong dạy học: - Phương tiện trực quan sẽ đóng vai trò chủ yếu và tích cực trong quá trình nhận thức khi chúng được sử dụng như một “nguồn” để dẫn tới kiến thức. Ở đây học sinh độc lập quan sát dưới sự tổ chức và chỉ đạo của giáo viên để đi tới những kết luận cũng là những kiến thức cần lĩnh hội. Quan sát lúc này mang tính chất tìm tòi, nghiên cứu. Nó có tác dụng phát huy tính chủ động, độc lập, phát triển óc quan sát, phát triển tư duy cho học sinh. - Hình vẽ trong SGK cũng được sử dụng làm phương tiện cung cấp thông tin về cấu tạo của một cơ quan hay hệ cơ quan mà học sinh phải tự tìm hiểu, tự nghiên cứu và hoàn thành các bài tập có tính chất củng cố để nắm chắc kiến thức. 2.2 Phương pháp dạy các kiến thức sinh lí, sinh thái: ❖ Vai trò của thí nghiệm trong dạy học kiến thức sinh lí, sinh thái. Trong việc dạy học các kiến thức sinh lí, sinh thái, thí nghiệm đóng một vai trò rất quan trọng. Thí nghiệm cho phép đi sâu nghiên cứu các hiện tượng, các quá trình sinh lí trong những điều kiện nhân tạo được khống chế, thí nghiệm được tiến hành trên các đối tượng (ếch, cóc, chuột thỏ ) hoặc ngay trên chính cơ thể học sinh để tìm hiểu nguyên nhân, tìm ra cơ chế, rút ra các quy luật hoạt động của các cơ quan, hệ cơ quan trong mối quan hệ của các cấu trúc của chúng. ❖ Sử dụng các thí nghiệm trong dạy học kiến thức sinh lí, sinh thái. Sử dụng các thí nghiệm như thế nào để đạt được hiệu quả cao về mặt nhận thức là một vấn đề đáng được lưu ý về mặt phương pháp. - Thí nghiệm có thể được sử dụng làm điểm xuất phát cho quá trình nhận thức là nguồn cung cấp thông tin trong nhóm phương pháp trực quan của GV biểu diễn (thí nghiệm biểu diễn) hoặc trong nhóm phương pháp thực hành do học sinh trực tiếp tiến hành (thí nghiệm học tập của HS). Ở đây dưới sự tổ chức và chỉ đạo của giáo viên, Lê Thị Ngọc Kiêm