Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng học tập của học sinh trong giờ dạy môn Hoá học

doc 15 trang sangkien 27/08/2022 5660
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng học tập của học sinh trong giờ dạy môn Hoá học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_chat_luong_hoc_tap_cua_hoc_si.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng học tập của học sinh trong giờ dạy môn Hoá học

  1. Đề tài: "Nâng cao chất lượng học tập của học sinh trong giờ dạy môn hoá học" A. Đặt vấn đề: I. Cơ sở lý luận: Hoá học là một môn học khó đối với học sinh THCS vì nó là một môn khoa học tổng hợp kiến thức của các môn khoa học tự nhiên và xã hội khác. Cho nên sau khi học xong chương trình lớp 7 các em mới có đủ điều kiện để lĩnh hội kiến thức của môn học này. Bên cạnh đó một số em học sinh còn cho rằng đây là một môn học phụ nên các em chưa có ý thức để học tập tốt bộ môn. Do đặc trưng của môn học và những quan niệm sai lầm về bộ môn cùng với sự cố gắng chưa cao của giáo viên trực tiếp giảng dạy môn hoá học, dẫn đến kết quả học tập của học sinh về môn hoá học ở các trường còn thấp. Từ kết quả này lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp thôi thúc tôi phải làm thế nào để nâng cao chất lượng học tập, việc làm đầu tiên là nâng cao chất lượng một giờ dạy trên lớp vì đây là một môn học rất thiết thực với thực tế đời sống và lao động sản xuất. Nó chuyên nghiên cứu về các chất và sự chuyển hoá của các chất, giúp ta từ các chất ban đầu tạo ra nhiều chất mới. Nhiều sản phẩm mới và quý không thể thiếu được trong cuộc sống để từng bước nâng cao mức sống của con người và đáp ứng toàn bộ yêu cầu của xã hội. II. Cơ sở thực tiễn. Trước tình hình chung hiện nay, việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống ngày càng được phát triển và mở rộng. Do đó việc cải thiện các trang thiết bị, dụng cụ máy móc. Việc đưa công nghệ tiên tiến vào mọi lĩnh vực nhằm phát triển kinh tế, bảo vệ an ninh quốc phòng là rất cần thiết. Để đạt được mục tiêu đó thì mỗi quốc gia cần phải định hướng đào tạo nhân tài từ trong trường học theo các chuyên ngành khác nhau. Chuyên ngành hoá học là một trong những chuyên ngành có nhiều ứng dụng trong thực tiễn cuộc sống. Nó phục vụ cho nhiều chuyên ngành khác phát triển. Vì vậy một việc rất cần thiết là ngay từ cấp cơ sở hệ thống trường THPT giáo viên phải nghiên cứu khám phá để nâng cao phương pháp trong một giờ dạy. Tạo cho các em có hứng thú say mê và yêu thích bộ môn học này. 1
  2. B. Giải quyết vấn đề: I. Tình hình thực tiễn: Mặc dù bộ môn hoá học ở THPT đóng một vai trò rất quan trọng nhưng ở cấp THCS các em thực sự không chú ý và xem đó như một môn phụ, đã có rất nhiều em không thích học môn này (sau đây là số liệu điều tra đầu năm tại lớp 9A khi chưa áp dụng đề tài này vào giảng dạy). Số em không yêu Số em xem đó như Số em yêu thích thích môn học một môn phụ môn học Số lượng 25 11 6 Tỷ lệ 59% 26% 15% II. Nguyên nhân: Nguyên nhân dẫn đến thực tiễn đó có một số nguyên nhân cơ bản là: - Các em chưa tìm thấy hứng thú trong quá trình học. - Các em thấy khó, chán nãn và có ý thức ỉ lại. - Các em chưa thấy được tầm quan trọng của bộ môn. Sở dĩ dẫn tới thực tế trên một phần chủ yếu là do giáo viên chưa tạo được những tiết học lôi cuốn học sinh. Nên dẫn đến chất lượng thấp. III. Giải pháp khắc phục. Để đạt được ước vọng “Nâng cao chất lượng học tập của học sinh trong giờ dạy môn Hoá học” bản thân tôi phải tiến hành những công việc sau: 1. Trước hết bản thân tôi phải nắm vững cấu trúc chương trình sách giáo khoa của từng lớp học, từng cấp học và cả chương trình của bộ môn, trong khi giảng bài, tôi giúp học sinh vận dụng kiến thức đã học, xây dựng kiến thức mới hoặc khi giảng xong kiến thức mới, tôi có thể xác định cho các em hướng để các em học lên các lớp trên. Ví dụ: Dạy định nghĩa về axít ở lớp 9, tôi cho học sinh nhắc lại định nghĩa axít ở lớp 8, từ đó hướng dẫn cho học sinh xây dựng định nghĩa axít ở lớp 9. Đến đây tôi xác định cho học sinh định nghĩa về a xít nó không dừng lại ở đây mà có điều kiện học lên lớp trên định nghĩa về axít còn được mở rộng hơn nữa (Dung dịch axít là một hợp chất có khả năng phân li ra H+) hoặc định nghĩa về ôxi hoá khử, định nghĩa về Bazơ cũng tương tự. 2
  3. Ngoài ra việc nắm vững cấu trúc chương trình còn giúp tôi mở rộng được nhiều kiến thức trong giờ dạy cho học sinh, nhất là đối với học sinh chuyên. Học sinh khá giỏi và giúp tôi có đầy đủ điều kiện để giảng dạy học sinh trong toàn cấp học. 2. Xác định đúng dạng bài để dạy đúng phương pháp đặc trưng của bộ môn và đúng với phương pháp của từng loại bài dạy, đối với môn hoá học có các dạng bài sau: - Dạng bài lý thuyết. - Dạng bài thực hành - Dạng bài luyện tập. - Dạng bài ôn tập tổng kết. - Dạng bài kiểm tra học sinh. (Phần này đã được xác định rõ trong phân phối chương trình). 3. Đọc kĩ bài dạy để hiểu đúng ý của người viết sách giáo khoa, về kiến thức cơ bản và cách trình bày kiến thức của tác giả, nắm được mối quan hệ giữa các kiến thức từ đó khắc sâu được kiến thức trọng tâm cho học sinh và làm cho học sinh thấy rõ con đường đi đến kiến thức rồi hướng dẫn cho các em phát hiện ra kiến thức. Ví dụ: Dạy bài “Ôxi ở lớp 8” kiến thức trọng tâm của bài là phần tính chất hoá học của ôxi, tôi đã làm cho học sinh thấy rõ con đường đi đến kiến thức là bằng thí nghiệm thực tế, để các em nắm được các tính chất hoá học của ôxi và để hướng dẫn cho các em phát hiện ra kiến thức qua từng thí nghiệm, tôi cho học sinh thấy rõ các chất đem tác dụng cùng với việc các em quan sát thí nghiệm và vận dụng vốn kiến thức có sẵn để có thể dự đoán sản phẩm tạo thành sau phản ứng và dẫn đến kết luận, cụ thể: Tính chất ôxi tác dụng với sắt, tôi cho học sinh biết các chất đem tác dụng là ôxi và sắt, học sinh quan sát thí nghiệm thấy có hạt nóng đỏ bắn ra, các em sẽ đự đoán sản phẩm là Fe3O4 (màu nâu), từ đó các em rút ra phương trình : to 3Fe + 2O2 = Fe3O4. Ngoài việc hiểu đúng ý nghĩa của người viết sách còn giúp tôi vận dụng thêm kiến thức của tài liệu tham khảo để mở rộng và nâng cao kiến thức cho học sinh (ở những lúc cần thiết). Đồng thời tránh được tình trạng dạy sai kiến thức cho học sinh. Ví dụ: Dạy bài nước (tiết 55 - Hoá 8) 3
  4. Cho 1 mẫu kim loại Na nhỏ bằng hạt đậu xanh vào cốc nước. Nhận xét: Natri phản ứng với nước nóng chảy thành giọt tròn có màu trắng chuyển động nhanh trên mặt nước. mẫu Na tan dần cho đến hết, có khí bay ra phản ứng toả nhiều nhiệt. Dung dịch tạo thành cho quỳ tím vào thấy chuyển sang màu xanh, cho fênol phtalein vào chuyển sang màu đỏ. Làm bay hơi dung dịch thu được ta sẽ được một chất rắn trắng. Các em dự đoán khí đó là khí gì và chất rắn trắng? viết phương trình hoá học 2Na + 2H2O 2NaOH + H2 ( HS tự xác định khí bay ra trong thí nghiệm là H2, chất rắn trắng thu được sau phản ứng là NaOH) Giáo viên giới thiệu về hợp chất NaOH và dẫn dắt học sinh định nghĩa về bazơ thông qua hiện tượng mà ta quan sát ở trên. Vậy dung dịch bazơ làm đổi màu quỳ tím thành xanh và fênol thành đỏ. Như vậy, tóm lại thông qua các thí nghiệm học sinh phải tự suy luận ra sản phẩm tạo thành và viết được các phương trình phản ứng minh hoạ. Đồng thời qua đó các em hình thành nên kiến thức mới. 4. Biến kiến thức của SGK, tài liệu tham khảo thành kiến thức khi truyền thụ cho học sinh, từ đó tôi đã gây cho học sinh một niềm tin vững chắc về kiến thức ở cô, các em thấy cô thầy là thiêng liêng cao cả và giữa giáo viên và học sinh phải có một khoảng cách nhất định về kiến thức nhưng rồi lại được quy tụ tại một điểm. 5. Tiến hành phân loại học sinh thành 4 đối tượng (Giỏi, khá, trung bình, yếu) và tìm hiểu học sinh con thương binh, con liệt sỹ, con mồ côi để trong khi giảng dạy tôi bao quát đủ các đối tượng sao cho tất cả các học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu kém, học sinh con thương binh liệt sỹ. Vì môn học này học sinh không có điều kiện để học bồi dưỡng buổi chiều như 2 môn văn, toán. Đồng thời thông qua việc phân loại học sinh tôi đã hướng nghiệp cho một số học sinh trong lớp đi vào một số nghề như: Đại học mỏ địa chất, công nhân sản xuất phân bón Đại học Bách khoa (khoa hoá thực phẩm ) Đây là một việc làm rất quan trọng, nó sẽ đáp ứng với mục tiêu giáo dục của nhà trường THCS đó là định hướng nghề cho các em, cụ thể vào năm 2007 - 2008 lớp 9A các em học vào nhóm khá, tôi hướng các em thi vào các trường đại học,như ĐH mỏ địachất, ĐH Bách khoa Số học sinh trung bình,yếu tôi hướng các em chọn thi vào các trường, ngành nghề phù hợp với năng lực của bản thân , các em có thể làm công nhân trong nhà máy 4
  5. chế biến dầu mỏ Như vậy ngay từ khi học THCS các em đã có ước mơ cho tương lai sau này . 6. Tiến hành soạn bài để tôi xác định hướng trọng tâm của bài dạy và sắp xếp các kiến thức của bài thành một hệ thống kiến thức lôgíc, chặt chẽ theo kiểu dạy học nêu vấn đề và bằng phương pháp thầy thiết kế, trò thi công “Hệ thống câu hỏi phải lôgíc” theo hệ thống kiến thức của bài và ngắn gọn, rõ ràng, phù hợp với 4 đối tượng học sinh để huy động nhiều học sinh làm việc trên lớp (để các em thấy chương trình mà sách giáo khoa đưa ra không có gì là quá tải rất phù hợp). * Tóm lại: Đối với tôi soạn bài là một hình thức giảng thử để phân bố thời gian cho phù hợp với từng phần kiến thức của bài và để bỏ bớt các ngôn ngữ thừa, các câu hỏi vụng, giúp học sinh hiểu bài một cách chắt lọc, nhẹ nhàng. Tuy nhiên để tiết học có chiều sâu về mặt kiến thức thì trong mỗi bài dạy giáo viên phải tìm được điểm nhấn của mỗi bài. Từ đó các em khắc sâu được kiến thức và hiểu sâu hơn. Ví dụ: Khi dạy bài bengen (Tiết 49 - lớp 9) Giáo viên cho học sinh giải thích cấu tạo của vòng bengen. hoặc hoặc Sỡ dĩ bengen có thể viết được 1 trong 3 công thức trên là do bengen có cấu tạo đặc biệt. Các liên kết π và δ không định sứ tại một chổ mà luân phiên trong vòng bengen, trong đó nguyên tử cácbon ở trạng thái lai hoá sp2, toàn bộ các nguyên tử trong phân tử đều nằm trong cùng một mặt phẳng. Vì vậy khi tham gia phản ứng thế, ta có thể thế ở bất kì vị trí nào trong vòng bengen. Hơn nữa góc liên kết là 1200, độ dài liên kết C - C ngắn hơn so với liên kết đơn C-C trong êtan và dài hơn liên kết đôi C = C trong êtylen. Các liên kết π trong vòng bengen tạo ra hệ khép kín bền vững. Đây chính là nguyên nhân làm cho các liên kết π trong vòng bengen bền hơn các liên kết π trong êtylen và axêtilen . Vì vậy ben zen không làm mất màu dung dịch Br2 và dung dịch thuốc tím (khác với êtilen và axêtilen). Qua đây các em có thể nắm sâu hơn về bản chất của cấu tạo vòng ben zen và từ đó giải thích tại sao ben zen lại có những tính chất như vậy. Ví dụ : Khi dạy bài : Tính chất hoá học của axit ( Tiết 5 - Lớp 9) 5