Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp dạy tiết tự chọn về cách giải bài toán axit Nitric

doc 13 trang sangkien 01/09/2022 2820
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp dạy tiết tự chọn về cách giải bài toán axit Nitric", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_phuong_phap_day_tiet_tu_chon_ve.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp dạy tiết tự chọn về cách giải bài toán axit Nitric

  1. Trường THPT Võ Trường Toản 1 Năm học: 2011 - 2012 Huongdanvn.com –Có hơn 1000 sáng kiến kinh nghiệm hay ĐỀ TÀI: MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY TIẾT TỰ CHỌN VỀ CÁCH GIẢI BÀI TOÁN AXIT NITRIC I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Kể từ năm 2007, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo đã chuyển cấu trúc thi tuyển sinh đại học, cao đẳng môn hoá từ tự luận sang trắc nghiệm 100%. Điều đó cũng đồng nghĩa trong vòng 90 phút, học sinh phải thật bình tĩnh để lựa chọn phương án trả lời tối ưu nhất trong thời gian ngắn nhất. Xu hướng thi trắc nghiệm hiện nay hướng học sinh tới những phương pháp và những cách giải nhanh để đi tới kết quả của một bài tập hóa học. Những phương pháp giải nhanh như bảo toàn electron, bảo toàn nguyên tố là một công cụ mạnh trong việc giải quyết bài toán hóa học. Nhưng tình trạng trên đang là một trong những rào cản chính đối với việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính cực, chủ động, sáng tạo và rèn luyện phương pháp tự học của học sinh, làm thui chột hứng thú, động cơ học tập đúng đắn và làm hao mòn đi bản chất hóa học thực sự của một bài toán hóa học. Chính vì thế, năm học 2010-2011 Bộ Giáo Dục và Đào Tạo đã tổ chức lớp bồi dưỡng, tập huấn về đổi mới công tác kiểm tra đánh giá. Trong quá trình dạy học, cần kết hợp một cách hợp lý hình thức tự luận với trắc nghiệm khách quan trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh, chuẩn bị tốt cho việc đổi mới các kỳ thi theo chủ trương của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo. Hơn thế nữa, thông qua các đề thi đại học, cao đẳng hiện nay tôi nhận thấy trong đề thi có nhiều bài tập liên quan đến axit nitric. Và trong quá trình giảng dạy, tôi thấy học sinh gặp rất nhiều khó khăn khi giải bài toán này vì không cân bằng được các phản ứng oxi hóa khử hoặc không định hướng được cách giải dù bài toán khá đơn giản. Chính vì thế, giáo viên cần phải dạy cho học sinh hiểu rõ bản chất, cách giải tự luận của một số dạng bài toán đơn giản về axit nitric. Sau đó, giáo viên hình thành cho học sinh các cách giải nhanh, đáp ứng được yêu cầu kết hợp một cách hợp lý hình thức tự luận với trắc nghiệm khách quan. Từ năm 2010 đến nay tôi nhận thấy trong các đề thi đại học, cao đẳng tác giả đã hạn chế cho những kiểu bài toán ráp trực tiếp công thức giải nhanh để tìm đáp án nhưng muốn dùng công thức nhanh thì trước tiên thí sinh phải suy luận kỹ để thây được bản chất của bài toán. Từ những hạn chế này và những yêu cầu về đổi mới công tác kiểm tra đánh giá, nay tôi mạnh dạn trình bày một vài kinh nghiệm đã áp dụng có hiệu quả trong việc khắc phục trình trạng học sinh còn yếu kém và nâng cao kỹ năng giải bài toán axit nitric của cả học sinh khá tốt. Đó là: Một số phương pháp dạy tiết tự chọn về cách giải bài toán axit nitric. II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI Người thực hiện:Lê Thị Mỹ Linh
  2. Trường THPT Võ Trường Toản 2 Năm học: 2011 - 2012 1. Thuận lợi Ngành Giáo dục tỉnh nhà đã tổ chức nhiều lớp tập huấn, hội thảo chuyên đề bồi dưỡng kiến thức nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho giáo viên có cơ hội mở rộng kiến thức mới phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy – học. Được sự quan tâm, giúp đỡ của Ban Giám Hiệu nhà trường đã đầu tư Internet và hỗ trợ 3G cho giáo viên để nhanh chóng tập nhật thông tin, tìm kiếm tài liệu giúp cho người dạy học có điều kiện chiếm lĩnh những kiến thức khoa học hóa học mới nhằm theo kíp sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển lớn mạnh. Đội ngũ giáo viên của tổ hóa trẻ, nhiệt tình năng động, có sự cầu tiến nên thường xuyên trao đổi kinh nghiệm giảng dạy để nâng cao tay nghề. Học sinh của trường nhìn chung chăm ngoan, nhiều em có năng lực tốt trong học tập và đa số các em yêu thích môn hóa. Cơ sở vật chất của các trường khá đầy đủ về phòng học, phòng chức năng, phương tiện dạy học đề hỗ trợ giảng dạy khá tốt. 2. Khó khăn Học sinh ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa kinh tế gia đình còn nhiều khó khăn, phương tiện thông tin đại chúng, Internet chưa có ảnh hưởng lớn trong quá trình tìm kiếm thông tin, tư liệu phục vụ việc học tập năng cao kiến thức của học sinh. Đội ngũ giáo viên dạy môn hóa ở trường trẻ nên còn nhiều hạn chế về chuyên môn, kinh nghiệm giảng dạy. Nên trong quá trình giảng dạy giáo viên thường cung cấp thông tin mà ít tạo cơ hội cho học sinh phát huy khả năng tìm tòi sáng tạo trong quá trình chiếm lĩnh tri thức, chưa thể gây được hứng thú học tập cho học sinh. Học sinh được tuyển vào có chất lượng thấp , đa số học sinh có học lực trung bình, kỹ năng suy luận và tính toán kém. Khả năng tự học của các em kém, tính ỷ lại vào thầy cô và các giờ học trên lớp của nhiều học sinh còn nặng nề. Qua những năm giảng dạy tại trường phổ thông tôi nhận thấy rất nhiều học sinh cứ loay hoay viết rất nhiều phương trình phản ứng khi cho hỗn hợp kim loại hoặc oxit kim loại tác dụng với axit nitric. Điều đó, sẽ mất nhiều thời gian làm bài và đôi khi không làm ra được kết quả. Để làm tốt hơn nữa chức năng, nhiệm vụ của bộ môn hóa học nói chung và bài toán về axit nitric nói riêng, hình thành kỹ năng giải bài toán hóa học cho học sinh. Tôi xin xây dựng nội dung bài dạy thông qua tiết tự chọn dùng cho học sinh khối 11 ban cơ bản với chủ đề: “ Giải bài toán về axit nitric” 3. Số liệu thống kê Trước khi thực hiện đề tài, tôi đã dạy nội dung này cho 3 lớp 11C3, 11C6 và 11C8( Năm học 2008-2009); Ban Cơ bản: 2 lớp (11C6 và 11C8) thuộc đối tượng trung bình- khá, Ban KHTN(11C3) thuộc nhóm lớp khá - giỏi. Sau 2 tiết dạy tôi có 15 phút để kiểm tra nhận thức của học sinh với 02 câu bài tập tự luận và 5 câu trắc nghiệm, kết quả đạt được như sau : A. Tự luận(5đ) Người thực hiện:Lê Thị Mỹ Linh
  3. Trường THPT Võ Trường Toản 3 Năm học: 2011 - 2012 Câu 1: Hòa tan hoàn toàn 1,62 gam Al vào dung dịch HNO3 thu được 2,24 lit (đktc) hỗn hợp khí gồm NO2 và NO. a. Viết các phương trình hóa học xảy ra. b. Tính thể tích mỗi khí trong hỗn hợp trên. c. Tính số mol HNO3 đã dùng Câu 2: Hòa tan hoàn toàn 6,81 gam hỗn hợp gồm Zn và ZnO bằng dd HNO 3 đặc nóng thu được 1,344lít NO2 ở đktc . Tính khối lượng mỗi chất trong hỗn hợp trên? B. Trắc nghiệm(5đ) Câu 1: Cho 1,92 gam Cu tác dụng vừa đủ với HNO 3 loãng thu được V lit khí NO (ở đktc, sản phẩm khử duy nhất). Giá trị của V là A.0,224 B.0,448 C.0,672 D. 0,336 Câu 2: Hòa tan m gam Fe vào dung dịch HNO3 đặc, nóng dư thì thu được 0,672 lít NO2 (ở đktc, sản phẩm khử duy nhất). Giá trị của m : A.0,28g B.0,56g C.1,12g D.0,84g Câu 3: Cho 14,45gam hỗn hợp Zn và Fe tác dụng với dung dịch HNO 3 đặc, nóng thu được 15,68 lít khí NO2 (ở đktc, sản phẩm khử duy nhất). Tính khối lượng của Zn là: A. 3,25 B. 6,5 C. 2,8 D. 13 Câu 4: Cho 2,16 gam Mg tác dụng với dung dịch HNO 3 (dư). Sau khi phản ứng xảy ra hoàn toàn thu được 0,896 lít khí NO (ở đktc) và dung dịch X. Khối lượng muối khan thu được khi làm bay hơi dung dịch X là A. 8,88 g. B. 13,92 g. C. 6,52 g. D. 13,32 g Câu 5: Hòa tan hoàn toàn 12 gam hỗn hợp Fe, Cu (tỉ lệ mol 1:1) bằng axit HNO3, thu được V lít (ở đktc) hỗn hợp khí X (gồm NO và NO 2) và dung dịch Y (chỉ chứa hai muối và axit dư). Tỉ khối của X đối với H2 bằng 19. Giá trị của V là : A. 2,24. B. 4,48. C. 5,60. D. 3,36. Sau khi thống kê kết quả thu được bảng số liệu sau: TT Lớp Sĩ số < 5 điểm 5 đến 7,9 ≥ 8 điểm điểm 1 11C3 49 34,7 % 40,8% 24,5% 2 11C6 46 43,5% 43,5% 13% 3 11C8 48 47,9% 41,7% 10,4% Qua các bảng thống kê ta nhận thấy, phương pháp dạy bài này chưa phù hợp với trình độ và năng lực nên kết quả học tập đạt chưa cao. Từ đó , tôi thấy cần thay đổi cách dạy đề hiệu quả dạy học càng được nâng cao. III. NỘI DUNG ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lý luận Nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường là đề tài quan trọng, đây vừa là mục tiêu vừa là sự đảm bảo uy tín danh hiệu của mỗi trường học. Chất lượng dạy và học là sự quan tâm hàng đầu, thường xuyên, không chỉ của những nhà quản lý trường học có tâm huyết, của mỗi cán bộ giáo viên mà còn là sự quan tâm, là niềm tin của nhân dân khi gửi gắm con em vào các nhà trường. Chất lượng giáo dục phụ thuộc vào nhiều yếu tố: chất lượng đội ngũ giáo viên, điều kiện cơ sở vật chất, chất lượng đầu vào của học sinh trong đó yếu tố đầu Người thực hiện:Lê Thị Mỹ Linh
  4. Trường THPT Võ Trường Toản 4 Năm học: 2011 - 2012 vào là yếu tố quan trọng. Trước thực tế học sinh đặc thù của một trường chất lượng đầu vào còn thấp, hổng kiến thức, thậm chí có những em thực hiện không được những phép tính sơ đẳng nhất. Qua tìm hiểu tôi nhận thấy học sinh đa số có học lực yếu không phải hoàn toàn do lỗi của các em hoặc không phải vì các em có hạn chế về nhận thức mà hầu hết các em đều ham hiểu biết, ưa thích khám phá, có một số em còn rất cầu tiến ham học, vui sướng khi hiểu bài, khi được giáo viên khen về sự tiến bộ của bản thân, như vậy hạn chế của các em một phần là do phương pháp giảng dạy của một số thầy cô còn chưa phù hợp. Hiểu được điều đó, tôi đã cố gắng chuẩn bị kĩ bài giảng, đơn giản hoá vấn đề để truyền đạt kiến thức cho học sinh một cách dễ hiểu nhất. Để dạy hay thì rất khó, còn để dạy dễ hiểu , dễ nhớ thì nếu cố gắng chắc ai cũng làm được. Hóa học là bộ môn khoa học nên rất cần sự tư duy sáng tạo của học sinh khi làm bài toán. Bên cạnh việc giải tự luận chi tiết rõ ràng để qua đó phát hiện phướng pháp mới , hay của học sinh thì giáo niên có thể giới thiệu một số công thức giải nhanh để rèn kỹ năng suy luận , tính toán để đáp ứng được yêu cầu kết hợp kiểm tra tự luận và trắc nghiệm. 2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài Để minh họa cho những vấn đề nhận thức lý luận trên tôi xin trình bày kinh nghiệm dạy nội dung:“ Giải bài toán về axit nitric” Bước 1. Xác định mục đích yêu cầu của bài học 1. Kiến thức: - Củng cố kiến thức : xác định được chất khử, chất oxi hoá, quá trình khử và quá trình oxi hoá. - Cân bằng phản ứng oxi hóa-khử. - Xử lí các dữ kiện bài toán: số mol, thể tích khí, khối lượng . - Tính chất hóa học đặc trưng của axit nitric là tính oxi hóa mạnh( đặc biệt với kim loại) KL + HNO3 muối nitrat + sản phẩm khử + H2O (trừ Au, Pt) (kim loại với số oxh cao) ( NO2, NO, N2, N2O, NH4NO3) - Phương pháp bảo toàn electron + Chỉ áp dụng cho bài toán xảy ra các phản ứng oxi hoá khử. + Xác định và viết đầy đủ các quá trình khử, quá trình oxi hoá. Định luật bảo toàn electron:  n e cho=  n e nhận Các kiến thức về phản ứng oxi hoá khử học sinh đã được trang bị ở lớp 10. Trong khuôn khổ đề tài, tôi chỉ xin đề cập tới một số dạng bài toán kim loại tác dụng với axit nitric từ đơn giản đến một số bài trong đề thi TSĐH theo cách giải thông thường ( viết phương trình phản ứng và tính theo phương trình phản ứng ) và phương pháp bảo toàn electron( giải tự luận và đưa ra công thức giải nhanh). 2. Kỹ năng: Phát triển khả năng quan sát, ghi chép và phân tích ở học sinh. 3. Thái độ: Khi học sinh có thể giải được bài toán dù đơn giản hay phức tạp đều tạo sự hứng thú, lòng say mê khoa học, kích thích các em tích cực học tập hơn. Bước 2. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh 1. Giáo viên: Người thực hiện:Lê Thị Mỹ Linh