Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học phân hóa theo đối tượng học sinh vùng sâu vùng xa đối với môn Toán Khối 7

doc 20 trang Sơn Thuận 07/02/2025 240
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học phân hóa theo đối tượng học sinh vùng sâu vùng xa đối với môn Toán Khối 7", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_day_hoc_phan_hoa_theo_doi_tuong_hoc_si.doc
  • docBản tóm tăt.doc
  • docPHỤ LỤC.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học phân hóa theo đối tượng học sinh vùng sâu vùng xa đối với môn Toán Khối 7

  1. NỘI DUNG GIẢI PHÁP A. Mục đích, sự cần thiết Trong các môn học ở bậc THCS môn toán là môn học rất quan trọng. Bởi vì học tốt môn toán giúp học sinh có kỹ năng tính toán nhanh hơn, khả năng tư duy lôgic, sáng tạo, giúp các em học tốt các môn học khác và vận dụng các kiến thức đó vào thực tiễn cuộc sống. Qua những năm thực tế giảng dạy tại trường PTDTBT THCS Chiềng Sơ một trường miền núi thuộc huyện Điện Biên Đông, thông qua việc dự giờ, chuyên đề, các đợt tập huấn tôi nhận thấy: - Đối với học sinh: Trong cùng một lớp có nhiều đối tượng học sinh như học sinh yếu, học sinh trung bình và học sinh khá, giỏi, nhưng chủ yếu là học sinh yếu và học sinh trung bình vì đa phần các em vẫn chưa có phương pháp học tập phù hợp cho bản thân dẫn đến kết quả học tập chưa cao. - Phần lớn GV Toán THCS trong trường còn yếu về phương pháp dạy học, chưa biết phân hóa đối tượng học sinh, trong quá trình lên lớp còn tham kiến thức, lệ thuộc quá nhiều vào sách giáo khoa, chưa chủ động sáng tạo trong việc lên lớp dẫn đến học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động, không hiểu rõ bản chất, trọng tâm của bài học. - Qua kiểm tra khảo sát đầu năm, giữa học kỳ I, kỳ II trong các năm học tôi thấy kết quả học tập của học sinh đối với môn Toán nhất là môn toán lớp 7 đạt kết quả rất thấp. Với lớp học của trường miền núi và có nhiều đối tượng học sinh, người GV phải làm gì và giảng dạy như thế nào để đạt được hiệu quả cao, nhất là đối với môn toán khối 7 (vì có nhiều kiến thức là nền tảng giúp các em HS học tốt môn toán ở các lớp trên)? đây cũng là những băn khoăn của không ít giáo viên. Trước những khó khăn đó tôi thấy để tìm ra một cách thức phù hợp với những đối tượng học sinh trên là công việc hết sức cần thiết nên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm "Dạy học phân hóa theo đối tượng học sinh vùng sâu vùng xa đối với môn toán khối 7 ". 1
  2. từng đối tượng HS. Nếu quan tâm nhiều đến HS yếu, không có thời gian để định hướng cho HS giỏi, khá phát huy năng lực của bản thân dẫn đến HS giỏi, khá dễ bị nhàm chán. Trong qua trình giảng dạy ta cũng nhận thấy việc hiểu và dạy học theo đối tượng HS vùng miền đối với môn toán lớp 7 của mỗi GV chưa đồng nhất, cụ thể: - Khi tổ chức dạy học các đồng chí GV chưa thống nhất được cách tổ chức tiết học theo hình thức dạy theo đối tượng học sinh, hệ thống bài tập, câu hỏi đưa ra cho học sinh chưa có tác dụng phát huy khả năng của học sinh (có khi quá khó, hoặc quá dễ). - Trong cùng một thời gian ngắn phải dạy ít nhất 3 trình độ học sinh : khá giỏi, trung bình, yếu nên chất lượng chưa cao, học sinh được luyện tập ít. - Học sinh chưa chú ý đến việc học, các em còn hay nói chuyện. Một số em cảm thấy mỏi mệt khi tham gia học tập. GV dạy toán khối 7 chỉ chú trọng và dành nhiều thời gian cho việc đầu tư giảng dạy mà ít tìm tòi sáng tạo trong đổi mới phương pháp dạy học, GV phần lớn lại chú trọng đến việc truyền đạt kiến thức, vẫn dạy chung cho số đông, không kích thích được yếu tố riêng của từng cá thể. Không ít GV thường dạy học theo thói quen, ít quan tâm đến tâm lý, thái độ, mức độ ham thích của học sinh nên dẫn đến kết quả không cao. Từ những khó khăn trên chúng ta cần phải đưa ra giải pháp ró ràng để "Dạy học phân hóa theo đối tượng học sinh vùng sâu vùng xa đối với môn toán khối 7 ": - Đầu tiên có và thực hiện các bước tổ chức dạy học phân hóa theo đối tượng học sinh vùng miền. Phân loại đối tượng học sinh, với mỗi đối tượng học sinh (học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu và kém) cần có cách thức, phương pháp dạy học phù hợp. - Trên lớp GV cần tổ chức tốt các hoạt động dạy học phân hóa theo đối tượng học sinh vùng sâu vùng xa phù hợp với từng đối tượng học sinh nhằm nâng cao chất lượng dạy học. 3
  3. * Tổ chức biên soạn lại phân phối chương trình toán 7 cho phù hợp với đối tượng học sinh. - Các căn cứ xây dựng phân phối chương trình: + Văn bản số 738/HD-SGDĐT tỉnh Điện Biên ra ngày 01/07/2015 về việc xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục định hướng phát triển năng lực học sinh + Phân phối chương trình của Phòng GD&ĐT đã ban hành gửi các trường. + Điều chỉnh giảm tải chương trình của Bộ GD&ĐT. + Chuẩn kiến thức, kỹ năng của Bộ GD&ĐT ban hành. + Đối tượng học sinh và điều kiện thực tế của nhà trường. - Việc xây dựng kế hoạch giáo dục định hướng phát triển năng lực học sinh (phân phối môn toán lớp 7 riêng của nhà trường) cần đảm bảo những nguyên tắc sau: + Nâng cao được kết quả thực hiện mục tiêu giáo dục của chương trình giáo dục phổ thông hiện hành do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. + Đảm bảo tính lôgic của mạch kiến thức và tình thống nhất giữa các môn học và các hoạt động giáo dục. + Đảm bảo tổng thời lượng của môn học và các hoạt động giáo dục mỗi năm học không ít hơn thời lượng quy định trong chương trình hiện hành. Việc xây dựng chương trình phải mang tính tổng thể của cả cấp học. + Đảm bảo tính khả thi với quyết tâm cao, tinh thần chủ động, tích cực, sáng tạo và tính hiệu quả dựa trên khả năng thực hiện của đơn vị trường mình. - Các bước xây dựng kế hoạch giáo dục định hướng phát triển năng lực học sinh (phân phối môn toán lớp 7 riêng của nhà trường); + Trên cơ sở chuẩn kiến thức, kĩ năng của cấp THCS xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục định hướng phát triển năng lực học sinh theo khung 37 tuần thực học; đảm bảo thời gian kết thúc học kỳ, kết thúc năm học thống nhất trong cả nước, có đủ thời gian dành cho ôn tập, tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo và kiểm tra đánh giá. + Tổ chức cho nhóm chuyên môn môn toán 7 cùng kiểm tra rà soát lại nội dung chương trình sách giáo khoa hiện hành để loại bỏ những thông tin cũ, lạc 5
  4. - Hiệu trưởng phê duyệt và chịu trách nhiệm về kế hoạch dạy học theo đối tượng đối với môn toán lớp 7 theo năm học, có thể điều chỉnh theo từng kỳ, từng năm để phù hợp với học sinh. Bước 2: Phân chia lớp học sinh theo đối tượng (nhóm đối tượng HS) Thông qua bài khảo sát phân chia học sinh vào các lớp (hoặc phân chia theo nhóm học sinh đối với khối lớp có ít học sinh) theo các đối tượng để trong một lớp (hoặc một nhóm học sinh) trình độ nhận thức của các em tương đối đồng đều. Đối với trường PTDTBT THCS Chiềng Sơ với 38 HS do vậy chia lớp thành 3 nhóm HS: Nhóm 1: Đối tượng HS yếu, kém. Nhóm 2: Đối tượng là HS trung bình. Nhóm 3: Đối tượng là học sinh khá, giỏi. Bước 3: Xây dựng kế hoạch, chương trình dạy bổ trợ; tổ chức và thực hiện dạy học theo từng đối tượng học sinh trên lớp. - Xây dựng kế hoạch, chương trình dạy bổ trợ: Dựa vào kết quả khảo sát đầu năm, hiệu trưởng chỉ đạo GV môn toán 7 tìm hiểu, phân tích trình độ nhận thức để đánh giá đúng thực chất của học sinh khối 7, xem các em còn đang thiếu, đang yếu những nội dung kiến thức gì ở lớp dưới để xác định nội dung cần ôn tập, bổ trợ, bồi dưỡng cho học sinh chuẩn bị cho việc học tốt toán 7. Chỉ đạo tổ chuyên môn (nhóm toán) tổ chức thảo luận, thống nhất kế hoạch, nội dung giảng dạy, ôn tập bổ trợ kiến thức cho nhóm 1 (HS yếu, kém) dạy những nội dung học sinh cần học (còn bị hổng) rồi mới dạy cho học sinh những nội dung theo đúng chương trình học. Đối với nhóm HS khá, giỏi thống nhất kế hoạch để ôn HS giỏi, nhằm phát huy được năng lực học tập của HS. - Tổ chức và thực hiện dạy học theo từng đối tượng học sinh trên lớp. Bên cạnh việc dạy bổ trợ cho các em HS còn yếu, còn "hổng" nhiều kiến thức theo kế hoạch và nội dung giảng dạy vào các tuần đầu của năm học thì trên 7
  5. Trước khi dạy khái niệm "đường trung trực của đoạn thẳng" (Bài 2: Hai đường thẳng vuông góc SGK - T83) GV cần cho học sinh ôn tập lại các kiến thức, kỹ năng cũ như trung điểm của đoạn thẳng, cách vẽ trung điểm của đoạn thẳng , vẽ đường thẳng vuông góc với đoạn thẳng cho trước qua một điểm cho trước đã được học ở lớp 7, rèn kỹ năng cho học sinh sử dụng thước và ê ke thành thạo thông qua các bài tập sau: Bài tập 1: Điền vào chỗ ( ) trong phát biểu sau để có định nghĩa đúng. "Trung đểm của đoạn thẳng AB là " Bài tập 2 : Vẽ đoạn thẳng AB dài 4 cm. Vẽ điểm M là trung điểm của đoạn thẳng AB. Bài tập 3: Cho M là trung điểm của đoạn thẳng AB. Qua M vẽ đường thẳng xy vuông góc với đoạn thẳng AB. Như vậy khi học sinh đã nắm được khái niệm và kỹ năng nói trên thì việc tiếp thu bài mới không mấy khó khăn. Trong thực hiện việc tạo tiền đề đảm bảo trình độ xuất phát cần chú ý: - Mỗi bài toán phải được thực hiện qua nhiều bước, hướng dẫn và yêu cầu cách thực hiện thành thạo từng bước một. - Tổ chức phân dạng bài tập một cách khoa học, chi tiết, cung cấp cho học sinh các dạng bài tập một cách có hệ thống. - Soạn thêm nhiều bài tập đơn giản và tương tự cho từng dạng để các em tự làm, qua đó các em được lặp lại nhiều lần, giúp các em dễ khắc sâu kiến thức. Sau khi kiến thức lớp dưới đã được bù đắp và bằng cách hạ thấp yêu cầu đến mức tối thiểu ở các dạng bài tập tôi nhận thấy các em học sinh đã xích lại gần nhau hơn, tiếp thu bài mới tốt hơn, yêu thích học môn toán hơn. + Thực hiện biện pháp lấp "lỗ hổng" về kiến thức và kỹ năng cho học sinh Qua tìm hiểu thực tế cho thấy: Kiến thức có nhiều "lỗ hổng" là một "bệnh "phổ biến của học sinh yếu kém toán. Vai trò của việc đảm bảo trình độ xuất phát là cần thiết nhưng chỉ để phục vụ cho nội dung sắp học. Còn việc lấp lỗ hổng về kiến thức kỹ năng là nhiệm vụ cần thiết nhưng mang tính tổng quát không phụ thuộc ý đồ chuẩn bị cho một bài học cụ thể nào sắp tới. 9
  6. + Giúp học sinh yếu kém luyện tập đảm bảo vừa sức: Đối với học sinh yếu kém, thầy giáo nên đặt quan điểm đảm bảo tính vững chắc của kiến thức lên hàng đầu. Việc luyện tập theo trình độ chung sẽ không phù hợp với học sinh yếu kém, vì vậy nhóm này cần nhiều thời gian luyện tập hơn. Trước hết phải làm cho các em hiểu rõ đề bài: Đề bài cho biết cái gì? yêu cầu cái gì? Nếu học sinh không hiểu đề bài thì không thể tiếp tục quá trình giải toán để đưa lại kết quả đúng được. Do đó GV cần dành nhiều thì giờ giúp các em vượt qua được vấp váp đầu tiên này. Để rèn một kiến thức hay kỹ năng nào đó thì số lượng bài tập cùng mức độ, cùng thể loại đối với các em yếu kém cần nhiều hơn bình thường. Do đó GV cần chú ý gia tăng số lượng bài tập cùng thể loại . Ngoài ra các bài tập phải được phân bậc với mức độ gần nhau (phân bậc mịn). Ví dụ: Khi dạy bài : "Cộng, trừ số hữu tỉ " (SGK - T8) phần bài tập về nhà cho đối tượng học sinh yếu, kém tôi ra các dạng như sau: Bài 1: Tính 1 5 a) + ; 8 8 b) + ; 0,2 + Bài 2: Tìm x, biết 1 3 1 3 a) x ; x 2 2 4 4 2 5 4 1 b) x ; x 5 7 7 3 Thông thường khi ra bài tập cho đối tượng học sinh yếu, kém không nên ra quá nhiều và khó, các dạng bài tập phải vừa sức với các em đặc biệt là có kiểm tra, chấm, chữa và cho điểm để động viên, khuyến khích các em. Được bước đi theo từng bậc thang vừa sức với mình, các em yếu kém sẽ tự tin hơn, không còn cảm giác bị hụt hẫng và sợ ngã. Sự tự tin giúp các em có thể tự leo hết các nấc thang dành cho mình. Từ đó dần dần chiếm lĩnh tri thức và 11
  7. - Giai đoạn 3: Tự làm theo mẫu GV ra một bài tập khác, học sinh tự làm theo mẫu mà GV đã đưa ra ở giai đoạn 1 và giai đoạn 2. GV tạm đứng ngoài cuộc. Ở giai đoạn này học sinh độc lập thao tác. Học sinh nào hiểu bài thì có thể hoàn thành được bài tập, học sinh nào chưa hiểu bài sẽ còn lúng túng. GV có thể nắm bắt được việc học tập cũng như mức độ hiểu bài của cả lớp và từng cá nhân thông qua giai đoạn này, từ đó đề ra biện pháp thích hợp cho từng đối tượng. Giai đoạn 3 có tác dụng gợi động cơ trung gian. GV thường vận dụng giai đoạn này khi ra bài tập về nhà. - Giai đoạn 4: Độc lập làm bài tập GV nên ra cho học sinh tự làm Ví dụ: (Bài tính chất của dẫy tỉ số bằng nhau) x y Tìm hai số x và y, biết: và x + y = 15 3 2 Giai đoạn 1: Quan sát, tiếp thu: GV giúp HS nhận thấy: Đây là dạng bài tìm hai số x và y áp dụng tính chất của dãy tỉ số bằng nhau. Giai đoạn 2: Làm theo hướng dẫn: GV hướng dẫn học sinh làm: Theo tính chất của dãy tỉ số bằng nhau ta có: x y x y 15 = 3 3 2 3 2 5 Vậy x = 3.3 = 9 ; y = 2.3 = 6 Giai đoạn 3: Tự làm theo mẫu: GV ra một bài tập khác tương tự như : x y Tìm hai số x và y, biết: và x + y = 27 3 6 Giai đoạn 4: Độc lập làm bài tập: GV ra một số bài toán tương tự khác, HS không cần nhìn theo mẫu và tự làm. + Đối tượng là học sinh khá, giỏi. Yêu cầu: - Bài soạn của GV phải có nội dung cho nhóm đối tượng học sinh giỏi. 13
  8. Bài tập: Tính C = 1 + 3 + 5 + + 997 + 999 Lời giải: từ 1 đến 1000 có 500 số chẵn và 500 số lẻ nên tổng trên có 500 số lẻ. Ta có: C = (1 + 999) + (3 + 997) + + (499 + 501) = 1000.250 = 250.000 (Tổng trên có 250 cặp số) - Tổ chức giao lưu học sinh giỏi giữa các khối lớp với nhau nhằm tạo điều kiện để học sinh thể hiện khả năng vận dụng, tư duy sáng tạo về một vấn đề, một đơn vị kiến thức trong chương trình nhằm giúp học sinh tự tin và có hướng phấn đấu trong tương lai. - Giao bài tập về nhà: cần giao các bài tập ở mức độ nâng cao. Bước 4: Tiến hành khảo sát, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh theo chương trình dạy bổ trợ, theo phân phối chương trình đã biên soạn. - Sau khi tổ chức dạy bổ trợ, ôn tập kiến thức cho học sinh cần tổ chức kiểm tra để nghiệm thu lại kết quả dạy học và đánh giá lại việc tiếp nhận kiến thức của học sinh theo từng đợt: + Nếu học sinh trong trong nhóm học sinh đã cơ bản đạt chuẩn kiến thức theo yêu cầu thì tổ chức dạy cho học sinh học tập theo chương trình chính khóa (tiếp tục kết hợp ôn tập kiến thức cũ trong các giờ học). + Nếu học sinh trong nhóm chưa đạt chuẩn kiến thức theo yêu cầu thì tiếp tục tổ chức dạy bổ trợ, ôn tập kiến thức cũ cho học sinh cho đến khi học sinh đạt được theo yêu cầu mới chuyển sang dạy học chương trình chính khóa (cần xác định rõ lộ trình, thời gian để học sinh đạt được chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình giáo dục theo yêu cầu). + Với trường PTDTBT THCS Chiềng Sơ sau quá trình dạy học bổ trợ cho HS thì đa phần HS đều đã đạt cơ bản đạt chuẩn kiến thức để học được môn toán 7, đối với HS này thì tổ chức dạy cho học sinh học tập theo chương trình chính khóa (tuy nhiên vẫn tiếp tục kết hợp ôn tập kiến thức cũ trong các giờ học). Còn số ít HS chưa đạt chuẩn kiến thức thì nhà trường vân tiếp tục tổ chức dạy bổ trợ, ôn tập kiến thức cũ. - Tổ chức dạy học chính khóa theo bộ phân phối chương trình đã được hiệu trưởng phê duyệt. 15
  9. - Sau khi thực hiện việc dạy học phân hóa theo đối tượng học sinh vùng sâu vùng xa với môn toán khối 7 gồm 38 HS tôi thấy: + Chất lượng học sinh yếu kém có sự biến chuyển đáng kể. Nhiều em đã có kỹ năng giải toán, dạng cơ bản, các em tự tin hơn, hứng thú khi học môn toán. Các em mạnh dạn trong khi phát biểu ý kiến, xung phong lên làm bài không còn rụt dè như trước. + Nâng cao được kiến thức, kĩ năng cho đối tượng HS yếu kém, trung bình và khá giỏi thông qua bảng sau: Kết quả trước khi vận dụng SKKN Số (Học kỳ I năm học 2016-2017) STT lượng Trung Giỏi Khá Yếu Kém HS bình SL % SL % SL % SL % SL % 1 38 1 2,7 2 5,3 17 42,1 15 39,5 4 10,5 Kết quả sau khi vận dụng SKKN Số (Học kỳ II năm học 2016-2017) STT lượng Trung Giỏi Khá Yếu Kém HS bình SL % SL % SL % SL % SL % 1 38 3 7,9 7 18,4 21 55,3 7 15,8 1 2,7 - GV nắm rõ cách thức dạy học theo đối tượng vùng miền đã làm nổi bật được trọng tâm bài dạy, phân hóa được các đối tượng học sinh yếu, kém, trung bình, khá, giỏi trong một lớp. Đảm bảo kiến thức đạt được tối thiểu cho học sinh yếu kém và củng cố, khắc sâu kiến thức bài học cho học sinh khá giỏi. Nội dung bài học thể hiện rõ kiến thức cần đạt của từng nhóm đối tượng học sinh, mức độ nhận thức của học sinh. e) Phạm vi ảnh hưởng của giải pháp: 17