SKKN Ứng dụng một số bài tập thể lực nhằm nâng cao thành tích chạy cự ly ngắn cho đội tuyển Hội khỏe Phù Đổng của trường THCS Đôn Xuân
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Ứng dụng một số bài tập thể lực nhằm nâng cao thành tích chạy cự ly ngắn cho đội tuyển Hội khỏe Phù Đổng của trường THCS Đôn Xuân", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- skkn_ung_dung_mot_so_bai_tap_the_luc_nham_nang_cao_thanh_tic.doc
Nội dung text: SKKN Ứng dụng một số bài tập thể lực nhằm nâng cao thành tích chạy cự ly ngắn cho đội tuyển Hội khỏe Phù Đổng của trường THCS Đôn Xuân
- PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN DUYÊN HẢI Tên Sáng kiến kinh nghiệm: ỨNG DỤNG MỘT SỐ BÀI TẬP THỂ LỰC NHẰM NÂNG CAO THÀNH TÍCH CHẠY CỰ LY NGẮN CHO ĐỘI TUYỂN HỘI KHỎE PHÙ ĐỔNG CỦA TRƯỜNG THCS ĐÔN XUÂN Họ và tên tác giả: TRƯƠNG THANH PHONG Đơn vị: Trường trung học cơ sở Đôn Xuân 0
- Năm học: 2015 - 2016 Nhận xét của Hội đồng khoa học giáo dục 1/ Cấp cơ sở: + Tổ (Tổ trưởng, ký tên) + HĐ thi đua trường: (Thủ trưởng, ký tên, đóng dấu) 2/ Cấp huyện hoặc thành phố: + Xếp loại:___ ( .đ) XÁC NHẬN TM.HĐSKKN (người chấm , ký và ghi rõ họ, tên) 1
- 1. LỜI NÓI ĐẦU: 1.1. Lí do chọn đề tài: 1.1.1.Cơ sở lí luận: Môn Điền kinh nói chung và Chạy cự ly ngắn nói riêng là môn thể thao có lịch sử phát triển lâu đời. Trong những năm 776 trước công nguyên, môn Điền kinh phát triển mạnh nhất ở Hy Lạp và từ những năm 1897 việc khôi phục các cuộc thi đấu truyền thống của thế vận hội Olympic đã đánh bước ngoặt cho sự phát triển môn Điền kinh. Ở nước ta trong suốt 4000 năm dựng nước và giữ nước, các hoạt động: chạy, nhảy, ném, luôn là phương tiện rèn luyện thể lực để phục vụ cho sản xuất và chiến đấu chống ngoại xâm. Ngày nay cùng với hội nhập về kinh tế thì Việt Nam đã tham gia trở lại các kỳ SEAGAMES, ASIAD và đã đạt một số thành công nhất định, trong đó môn Điền kinh đóng vai trò rất lớn cho sự thành công này. Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến giáo dục sức khỏe cho nhân dân, thực hiện theo lời chỉ dạy của Bác Hồ “Dân cường thì nước thịnh”. Với phương châm “Khỏe để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, chính vì thế môn Điền kinh trở thành nội dung chính trong các trường phổ thông về giáo dục thể chất và nâng cao tinh thần cho học sinh đồng thời là tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho các tầng lớp nhân dân để từ đó phát hiện và bồi dưỡng nhân tài. Trong nhà trường phổ thông, việc Giáo dục thể chất (GDTC) học sinh được thể hiện trong dạy và học môn Thể dục theo chương trình của Bộ GD - ĐT. Nhiệm vụ cụ thể là giáo dục cho học sinh những hiểu biết và những kỹ năng cần thiết về thể dục thể thao, về những môn thể thao quần chúng, nhất là môn Điền kinh. 1.1.2.Cơ sở thực tiễn: Các bài tập của Điền kinh đóng vai trò chủ yếu trong việc phát triển thể lực toàn diện cho học sinh. Nội dung giảng dạy Điền kinh ở THCS bao gồm các môn chạy cự ly ngắn, nhảy cao bước qua, chạy bền và nhảy xa kiểu ngồi. Thực trạng thành tích các môn này trong kiểm tra thành tích cuối năm và thi đấu Hội khỏe phù đổng (HKPĐ) cấp huyện, tỉnh của trường THCS Đôn Xuân, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh còn rất hạn chế, nhất là thành tích Chạy cự ly ngắn. 1
- Nhiều năm nay, tôi muốn có những cải tiến cụ thể để nâng cao hiệu quả trong giảng dạy và huấn luyện đội tuyển Điền kinh của trường. Vì vậy, tôi đã nghiên cứu tham khảo nhiều tài liệu có liên quan để lựa chọn ra những bài tập đáp ứng đúng với việc tập luyện kỹ thuật và phát triển thể lực đặc thù cho môn Chạy cự ly ngắn. Trên cơ sở này, từng bước nâng cao thành tích Chạy cự ly ngắn trong giảng dạy. Sau đó huấn luyện những học sinh có năng khiếu về Chạy cự ly ngắn để thành lập đội tuyển Điền kinh thi đấu cho trường trong những năm tới. Từ những lý do trên, tôi tiến hành chọn đề tài: “Ứng dụng một số bài tập thể lực nhằm nâng cao thành tích Chạy cự ly ngắn cho đội tuyển Hội khỏe Phù Đổng của trường THCS Đôn Xuân” 1.2. Phạm vi của đề tài: 1.2.1. Đối tượng nghiên cứu: Các bài tập thể lực nhằm nâng cao thành tích Chạy cự ly ngắn cho đội tuyển Hội khỏe Phù Đổng của trường THCS Đôn Xuân, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. 1.2.2. Khách thể nghiên cứu: Học sinh trong đội tuyển HKPĐ, môn Điền kinh của trường. Số lượng: 16 học sinh (08 nam; 08 nữ). 1.2.3. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 8 năm 2013 đến tháng 4 năm 2016. 1.2.4. Địa điểm nghiên cứu: Tại trường THCS Đôn Xuân, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. 2. THỰC TRẠNG: 2.1. Quan sát thực tế: Trong những cuộc thi TDTT do Tỉnh tổ chức, có thể nói môn Điền kinh nói chung và Chạy cự ly ngắn nói riêng là một trong những môn mà Trường THCS Đôn Xuân luôn có thành tích thấp so với những trường khác. Thực trạng thành tích môn Điền kinh trong kiểm tra thành tích cuối năm và thi đấu Hội khỏe Phù đổng cấp huyện, cấp tỉnh của trường THCS Đôn Xuân những năm trước đây còn rất hạn chế, nhất là thành tích Chạy cự ly ngắn. Một phần do Chạy cự ly ngắn chưa thực 2
- sự được quan tâm đúng mức, một phần do tố chất thể lực và ý thức luyện tập của VĐV chưa cao nên dẫn tới kết quả không được tốt trong các cuộc thi TDTT. Nhận xét về tình hình dạy và học Chạy cự ly ngắn: Ở lớp 8, lớp 9 môn Chạy ngắn được tiến hành giảng dạy trong 9 tuần của học kỳ 1 và được phân bổ trong 18 tiết. Trong một tiết học 45 phút có 3 môn học là Chạy ngắn, Bài Thể dục và Chạy bền. Thời lượng để học 3 môn này chỉ chiếm khoảng 32 - 36 phút. Do vậy lượng vận động chưa cao nên chưa phát huy hết khả năng của học sinh. Nhận xét về tình hình tập luyện Chạy cự ly ngắn trong đội tuyển Hội khỏe Phù đổng của trường THCS Đôn Xuân: Đa phần trước đây các em thường không có thời gian để đầu tư luyện tập vì thời gian giành cho luyện tập đội tuyển HKPĐ chưa được quan tâm đầu tư đúng mức. Việc lựa chọn và áp những bài tập thể lực chưa hợp lý cũng ảnh hưởng rất nhiều đến việc nâng cao thành tích chạy cự ly ngắn của các em. 2.2. Nghiên cứu tài liệu: 2.2.1.Về đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi THCS: Sự phát triển về mọi mặt của cơ thể học sinh diễn ra khá phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài cơ thể. Người làm công tác GDTC cần nắm chắc các quy luật sinh lý cơ bản ấy, thúc đẩy các quy luật ấy phát triển tốt thì mục đích nhiệm vụ GDTC sẽ đạt được kết quả tối ưu. Chúng ta cần nhận thức rằng cơ thể học sinh không phải là cơ thể người lớn thu nhỏ lại. Tóm tắt đặc điểm sinh lý học sinh THCS (từ 12 đến 15 tuổi): Đặc điểm đặc trưng của lứa tuổi này là quá trình phát dục mạnh mẽ. Các tuyến nội tiết (tuyến hạ não, tuyến giáp trạng) tăng cường hoạt động, kích thích cơ thể lớn lên nhanh mà chủ yếu do chân tay dài ra, đồng thời kích thích tuyến sinh dục (buồng trứng ở con gái, tinh hoàn ở con trai) bắt đầu hoạt động mạnh mẽ theo kiểu cách của sinh lý người trưởng thành. Khi tuyến sinh dục đã hoạt động đủ mạnh, đủ làm xuất hiện giới tính chính thì trở lại kiềm hãm sự hoạt động của hai tuyến hạ não và giáp trạng. Bởi thế, chiều 3
- cao phát triển chậm dần, ít năm nữa sẽ dừng hẳn, trái lại các chiều ngang, các vòng cơ thể cùng với sức lực tăng lên rõ rệt. Nói chung, cơ thể học sinh đang trên đà phát triển mạnh. Những sự mất cân đối giữa các mặt đặt yêu cầu cho các nhà giáo dục phải biết chăm sóc các em thật chu đáo. Thiếu luyện tập thể dục, ý thức giữ vệ sinh kém, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí không hợp lý sẽ đưa đến những tác hại không nhỏ cho sức khỏe. Nhưng nếu hiểu biết rõ đặc điểm và sử dụng đúng năng lực của các em thì tuổi này có nhiều đóng góp tốt, có nhiều tài năng đang độ nảy nở, kể cả tài năng về TDTT. Để hiểu rõ hơn đặc điểm nói trên, cần biết thêm một số hệ thống cơ quan dưới đây: Hệ thần kinh: đã hoàn thiện về cơ cấu tế bào, nhưng chức năng sinh lý vẫn đang phát triển mạnh. Hưng phấn vẫn chiếm ưu thế, khả năng phân tích tổng hợp mặc dù còn thấp nhưng sâu sắc hơn tuổi nhi đồng. Dễ thành lập phản xạ, song cũng dễ phai mờ, cho nên tiếp thu nhanh nhưng cũng chóng quên. Thần kinh thực vật yếu ớt ở mức độ nhất định, các dấu hiệu về kích thích cảm giác tăng lên, 14% trai và 26% gái xuất hiện trạng thái đau đầu vô cớ, chóng mệt, hồi hộp, đôi khi có biểu hiện đau ở vùng dạ dày, dễ bị chấn thương tinh thần khi rối loạn giấc ngủ, hoặc khi giáo dục sai phương pháp, khi công việc nặng nhọc, tập luyện quá sức. Hệ vận động: phát triển đáng chú ý cả về số lượng và chất lượng. Xương đang cốt hóa mạnh mẽ, dài ra rất nhanh, Các xương nhỏ ở cổ tay, cổ chân đã thành xương nhưng chưa vững vàng, lao động, học tập nặng nề dễ gây đau kéo dài ở các khớp đó. Mãi đến 15 - 16 tuổi cột sống mới tương đối ổn định các đường cong sinh lý. Nếu đi, đứng ngồi sai tư thế vẫn có thể bị cong vẹo cột sống. Đặc biệt đối với nữ do các xương chậu chưa cốt hóa đầy đủ nên nếu tập luyện không đúng sẽ dễ bị méo, lệch, ảnh hưởng đến chức năng sinh đẻ sau này. TDTT đã phân môn và nâng cao kỹ thuật, trai gái tập theo hình thức và khối lượng khác nhau. Cần bồi dưỡng năng khiếu thể thao đang bộc lộ. Trên cơ sở tập luyện toàn thân, toàn diện mà ưu tiên phát triển các chiều dài trong cơ thể (ở tuổi tiền dậy thì) hoặc ưu tiên phát triển các chiều ngang và chiều vòng (từ khi hết tiền 4
- dậy thì), ưu tiên phát triển sức nhanh, khéo léo và sức mạnh, có chú ý phát triển sức bền chung (ở cả tiền dậy thì và dậy thì, đặc biệt từ khi dậy thì chính thức). 2.2.2. Về giáo dục tố chất vận động: Nguyên lý giáo dục cũng giống như người lớn. Cần quan tâm phát triển các tố chất cho các em nhưng tùy theo sự phát triển của lứa tuổi mà ưu tiên phát triển tố chất nào cho phù hợp. Khéo léo: Các bài tập khéo léo chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Giáo dục khéo léo nhằm làm cơ sở cho việc chuẩn bị tiếp thu các bài tập phức tạp ở lớp trên, Sử dụng các bài tập phối hợp phức tạp và trong điều kiện ngày càng phức tạp hơn. Mềm dẻo: Sự phát triển tự nhiên của mềm dẻo ở lứa tuổi này là tốt nhất. Cần duy trì mềm dẻo bằng các bài tập có biên độ lớn. Tuy nhiên không nên phát triển mềm dẻo quá mức cho các em. Sử dụng các bài tập mềm dẻo phải kết hợp với việc củng cố các cơ và dây chằng. Sức nhanh: Lứa tuổi nhỏ sức nhanh còn kém phát triển. Để giáo dục sức nhanh trước tiên cần ưu tiên phát triển phản ứng vận động đơn giản và sức nhanh thực hiện động tác ở các em lứa tuổi lớn (từ 11 - 14 tuổi). Sức nhanh phát triển mạnh cụ thể là khoảng 12 tuổi đối với nữ và 13 tuổi đối với nam. Ở lứa tuổi này cần giáo dục tốc độ và phản ứng vận động phức tạp. Cần chú ý tránh hiện tượng chặn tốc độ, trong các bài tập nên sử dụng hình thức nghỉ ngơi tích cực. Sức mạnh: Cần phải thận trọng vì các bài tập sức mạnh không hợp lý sẽ gây nên những sai lệch tư thế bình thường. Lứa tuổi 12 trở lên sức mạnh tăng rõ rệt, có thể sử dụng các bài tập có trọng lượng lớn nhưng phải đảm bảo các nguyên tắc tăng từ từ, vừa sức và chiếu cố đặc điểm cá nhân. Sức bền: còn hạn chế, chú ý phát triển sức mạnh của các cơ hô hấp để tạo điều kiện cho giáo dục sức bền sau này. 2.3. Thực trạng: Thực tế giáo dục hiện nay với yêu cầu ngày càng cao của công tác giáo dục tích cực đổi mới nâng cao chất lượng đào tạo, phát triển giáo dục toàn diện thì bên cạnh đó TDTT nói chung bộ môn thể dục nói riêng cũng phải được nâng cao phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội và mục tiêu giáo dục thể chất trong nhà 5