SKKN Sử dụng thiết bị dạy học Hoá học và ứng dụng công nghệ thông tin góp phần đổi mới phương pháp dạy học Hoá học để nâng cao chất lượng giảng dạy

doc 5 trang sangkien 29/08/2022 6521
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Sử dụng thiết bị dạy học Hoá học và ứng dụng công nghệ thông tin góp phần đổi mới phương pháp dạy học Hoá học để nâng cao chất lượng giảng dạy", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_su_dung_thiet_bi_day_hoc_hoa_hoc_va_ung_dung_cong_nghe.doc

Nội dung text: SKKN Sử dụng thiết bị dạy học Hoá học và ứng dụng công nghệ thông tin góp phần đổi mới phương pháp dạy học Hoá học để nâng cao chất lượng giảng dạy

  1. Sử dụng thiết bị dạy học Hoá học và ứng dụng công nghệ thông tin góp phần đổi mới phương pháp dạy học Hoá học để nâng cao chất lượng giảng dạy. I/ ĐẶT VẤN ĐỀ: Việc đào tạo con người có trình độ khoa học, đủ sức tiếp cận với sự phát triển của thế giới là việc làm cần thiết và cực kỳ quan trọng đối với nền Giáo dục của mỗi đất nước. Đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay, để phát triển Giáo dục thì không còn cách nào khác là chúng ta phải cải cách Giáo dục trên nhiều phương diện như mục tiêu, nội dung, phương pháp giảng dạy, phương tiện dạy học Tất cả cùng mục đích nâng cao hiệu quả tiếp thu kiến thức, phát huy tính tích cực chủ đạo và năng lực sáng tạo của học sinh. Do vậy chương trình sách giáo khoa mới đòi hỏi giáo viên tham gia giảng dạy phải thực sự nắm bắt và đổi mới phương pháp dạy học. Qua giảng dạy bộ môn Hoá học ở trường THCS, tôi thấy việc dạy bộ môn Hoá học gặp một số thuận lợi và khó khăn sau: 1, Về thuận lợi Hệ thống SGK hoá học ở bậc THCS được soạn thảo phù hợp với phương pháp dạy học mới hiện nay, phù hợp với trình độ của học sinh. Với nội dung và phương pháp dạy học mới đã góp phần tích cực Giáo dục học sinh các kỹ năng: - Thu thập, xử lý, truyền đạt thông tin. - Sử dụng các dụng cụ thí nghiệm phổ biến. - Giải thích các hiện tượng hoá học đơn giản. - Bước đầu biết áp dụng, vận dụng kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống. - Vận dụng được kiến thức hoá học để giải một số bài tập hoá học phù hợp trình độ học sinh cấp THCS. - Phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh. Tạo cho học sinh thói quen tự lực, chủ động khám phá tri thức mới. - Giáo dục tình cảm, thái độ của học sinh, tạo hứng thú học tập bộ môn. Xây dựng ý thức áp dụng kiến thức học tập được vào cuộc sống, giáo dục thái độ trung thực, thắng thắn, tỉ mỉ, chính xác, tinh thần làm việc tập thể. Đi đôi với nội dung và phương pháp giảng dạy được đổi mới thì nhà trường đã trang bị khá đầy đủ các thiết bị dạy học cần thiết cho mỗi bài học. Bản thân tôi đã được học tập cả về việc đổi mới phương pháp dạy học và cách sử dụng thiết bị dạy học trong giờ học. Do vậy các giờ học tôi đã thực hiện được vai trò chỉ đạo hướng dẫn, vai trò phát triển được sự chủ động sáng tạo tiếp thu kiến thức của học sinh. 2, Về khó khăn : - Học sinh : Chưa hoàn toàn có thói quen học tập tự chủ, sáng tạo. Đối tượng học sinh trong lớp không đồng đều: Có đối tượng rất tích cực, năng động, tư duy nhanh nhạy, dễ tiếp thu kiến thức. Nhưng nhiều đối tượng học sinh có sự ỳ rất lớn, chưa hoàn toàn cuốn hút theo hoạt động chung, thụ động, thiếu tích cực trong học tập. - Phương pháp dạy học mới đòi hỏi trang thiết bị dạy học đầy đủ, cơ sở vật chất phù hợp với phương tiện dạy học hiện đại Hiện nay, các trường học đã được trang bị khá đầy đủ dụng cụ thí nghiệm cho các môn học nhưng một số dụng cụ như giấy quỳ tím, một số húa chất chưa có độ chính xác cao. Hệ thống tranh vẽ của môn hoá học còn ít, độ bền của một số dụng cụ TN chưa thật tốt như ống hút, ống nghiệm Điều đó thực sự gây nhiều khó khăn cho giáo viên dạy môn hoá học. Chương trình kiến thức hoá học với lượng kiến thức không nhỏ, đòi hỏi kỹ năng thực hành của học sinh nhiều và lượng bài tập hoá học học sinh phải giải khá nhiều có bài khó HỒ MINH ĐƯƠNG - SKKN - THCS TÂN THẠNH, NĂM HỌC 2008-2009 - 1 -
  2. nhưng số lượng giờ học chỉ có 2 tiết/tuần đối với cả hoá 8 và hoá 9, nên giáo viên rất khó khăn khi tổ chức chữa bài tập để rèn kỹ năng giải BT cho học sinh. - Khó khăn mà giáo viên hoá học thường xuyên gặp là hầu hết các bài dạy đều đòi hỏi giáo viên phải tổ chức được các nhóm học sinh trong lớp làm được thí nghiệm mà mỗi bài học yêu cầu. Nhiều giờ dạy thời gian cho thí nghiệm mất nhiều dẫn đến việc phân bố thời gian rèn kiến thức khác bị ảnh hưởng. - Bộ môn hoá học cùng với một số bộ môn ít giờ khác đa số vẫn bị học sinh coi là bộ môn phụ, học sinh ít khi chuyên tâm vào học tập mà chủ yếu lao vào học các bộ môn nhiều tiết / tuần. - Trước những khó khăn như vậy, tôi đã phải cố gắng làm sao cho mỗi giờ dạy của mình vừa dạy đúng phương pháp tổ chức tốt nhóm học sinh thực hành thành công, đảm bảo lượng kiến thức học sinh cần tiếp thu được và cuốn hút học sinh trong mỗi giờ học .Đặc biệt qua mỗi giờ dạy, mỗi năm giảng dạy tôi phải tự rút ra cho mình những kinh nghiệm để ngày càng nâng cao chất lượng giảng dạy môn hoá học. Xuất phát từ những vấn đề trên, tôi muốn viết một số kinh nghiệm về việc "sử dụng thiết bị dạy học Hoá học và ứng dụng công nghệ thông tin góp phần đổi mới phương pháp dạy học Hoá học để nâng cao chất lượng giảng dạy’’. II/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: Trong giảng dạy Hoá học, ngoài việc cố gắng tuân theo khuôn khổ chung, mỗi giáo viên phải giành tâm huyết trong từng giờ dạy, phải luôn tìm hiểu kỹ các kiến thức cần đưa ra, sáng tạo trong việc giảng dạy. Không để tình trạng giáo viên dạy còn học sinh chỉ biết thu nhận. Sự chuẩn bị kỹ lưỡng bài học giúp cho quá trình dẫn dắt học sinh tìm hiểu khám phá kiến thức có sự lôi cuốn, hấp dẫn, đòi hỏi học sinh suy nghĩ song song với dòng suy nghĩ của thầy. Như vậy sẽ đẩy mạnh việc tích cực hoá hoạt động tư duy của học sinh. Thực tế giảng dạy các tiết học Hoá học, hầu hết các giờ dạy đều đòi hỏi giáo viên tổ chức được nhóm học sinh làm thí nghiệm thành công. Nếu giáo viên tổ chức nhóm học sinh làm thí nghiệm nghiên cứu khám phá, kiến thức thành công sẽ tạo cho học sinh thực sự hứng thú với học tập, tự tin trong việc nắm bắt kiến thức, phát triển tốt tư duy sáng tạo, rèn sự khéo léo cẩn thận và giáo dục tính tập thể trong học sinh. Sử dụng thiết bị dạy học Hoá học và ứng dụng công nghệ thông tin góp phần đổi mới phương pháp dạy học Hoá học: - Thiết bị dạy học Hoá học bao gồm: Dụng cụ và hoá chất, tranh, ảnh, mô hình, mẫu vật thật, đĩa hình, máy tính, máy chiếu - Thiết bị dạy học Hoá học được sử dụng tạo nguồn kiến thức để học sinh quan sát, tìm kiếm, phát hiện, xây dựng kiến thức Hoá học mới. - Thiết bị dạy học tạo điều kiện cho HS quan sát các mô hình phân tử, nguyên tử, các mẫu chất, các phản ứng hoá học, quy trình sản xuất một cách trực quan, sinh động tạo điều kiện phát triển tư duy trừu tượng cho HS hình thành khái niệm hoá học và vận dụng chúng một cách tích cực và chủ động. Khi sử dụng các thiết bị dạy học, các hoạt động của GV và HS có thể như sau: Mức độ Hoạt động của GV Hoạt động của HS Mức1. Sử - Thông báo nội dung - Nghe thông báo dụng ít tích - Cho HS xem mô hình, mẫu vật, thí - Quan sát để minh hoạ cho cực nghiệm, hình ảnh mô phỏng, sơ đồ, để lời nói của GV minh hoạ Mức2. Sử - Nêu mục đích - Nắm mục đích dụng tích - Trình bày hoặc cho HS quan sát - Tiến hành các hoạt động cực - Giao nhiệm vụ cho HS thu thập và xử lý thông tin: HỒ MINH ĐƯƠNG - SKKN - THCS TÂN THẠNH, NĂM HỌC 2008-2009 - 2 -
  3. - Hướng dẫn hoạt động của HS Quan sát, tiến hành thí nghiệm - Nhận xét rút ra kết luận. Khi dạy các bài hình thành kiến thức mới, tôi nhận thấy rằng sử dụng thiết bị dạy học theo mức 2 đã giúp HS lĩnh hội kiến thức một cách dễ dàng. Ví dụ 1: Khi dạy về phương pháp tách chất ra khỏi hỗn hợp, tôi đã sử dụng thiết bị dạy học như sau: Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh - Yêu cầu HS làm thí nghiệm theo các - Làm thí nghiệm theo nhóm bước sau: - Đại diện nhóm báo cáo kết quả + Bỏ muối ăn vào nước, khuấy + Khi bỏ muối ăn vào nước, khuấy thì + Đun cạn hỗn hợp thu được muối tan + Khi đun cạn nước muối thì thu được muối. ?Dựa vào tính chất gì mà ta có thể tách - HS: Dựa vào nhiệt độ sôi khác nhau của được muối ra khỏi hỗn hợp nước muối? muối và nước - GV yêu cầu HS làm thí nghiệm tách - HS thảo luận nhóm, tìm ra phương pháp riêng được muối ăn và cát ra khỏi hỗn hợp tách, sau đó làm thí nghiệm theo nhóm. ? Dựa vào tính chất nào để tách riêng được - Sau khi làm thí nghiệm, HS dễ dàng biết muối ăn và cát ra khỏi hỗn hợp? được dựa vào tính tan trong nước. ? Qua 2 thí nghiệm trên, em hãy cho biết - HS: tự rút ra được kết luận: Dựa vào tính nguyên tắc để tách một chất ra khỏi hỗn chất vật lý khác nhau của chất để tách chất hợp? ra khỏi hỗn hợp. Ví dụ 2: Dạy về hiện tượng hoá học, có thí nghiệm đốt hỗn hợp bột Fe và bột S, do hoá chất không đảm bảo nên khi làm thí nghiệm không thành công, lúc này chúng ta có thể sử dụng thiết bị dạy học là máy trình chiếu và băng hình, tôi chiếu các bước thí nghiệm để HS quan sát kĩ các hiện tượng phản ứng. Từ đó HS tự rút ra được kết luận mặc dù không được trực tiếp làm thí nghiệm nhưng các em vẫn rất hứng thú và tự chủ tiếp thu kiến thức. Ví dụ 3: Khi tôi dạy về công thức cấu tạo của hoá học hữu cơ, như etilen, axetilen, bezen , để hình thành được kiến thức cho HS tôi thường dùng các mô hình của thiết bị dạy học để các nhóm HS được lắp ghép thành công thức cấu tạo của chất, khi đó tôi thấy các em tiếp thu kiến thức rất tốt, và các em thuộc bài nhanh. Không chỉ ở những giờ học hình thành kiến thức mới mà cả những giờ luyện tập, giờ thực hành , tôi thấy việc sử dụng thiết bị dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin là rất cần thiết và có hiệu quả cao trong giảng dạy: Ví dụ 1: Khi dạy về phần luyện tập sau bài rượu etylic, chỳng ta có thể dùng máy chiếu để chiếu bài tập sau: Hãy giải bài tập sau đây. Cho mẩu natri tác dụng với dung dịch rượu. Có những phản ứng nào có thể xảy ra? Hãy viết phương trình hoá học và giải thích? - GV yêu cầu HS làm ra phiếu học tập, sau đó chiếu một số bài làm của HS lên - HS khác nhận xét bổ sung ngay trên bài của bạn. - GV chiếu nội dung bài tập đã hoàn thiện để HS tham khảo. Ví dụ 2: Khi dạy bài thực hành chỳng ta có thể chiếu mục tiêu, nội dung lên màn hình để HS thực hành được thành công và không mất nhiều thời gian ghi bảng Khi sử dụng phương pháp này vào giảng dạy tôi thấy phương pháp này có những ưu và nhược điểm sau: Ưu điểm: Giúp cho việc dạy Hoá học trực quan, sinh động, phát triển tư duy tạo điều kiện cho HS tích cực khai thác, tìm tòi xây dựng kiến thức mới. HỒ MINH ĐƯƠNG - SKKN - THCS TÂN THẠNH, NĂM HỌC 2008-2009 - 3 -
  4. Nhược điểm: - Cần có phương tiện thiết bị nên tốn kém hơn, ví dụ như máy trình chiếu, băng hình, hay những đoạn phim về thí nghiệm (quý đồng nghiệp chịu khó sưu tầm những thí nghiệm mẫu) - Cần có nhiều thời gian để GV chuẩn bị, như làm thí nghiệm trước khi lên lớp để dự trù được lượng hoá chất cần dùng, thời gian hoàn thành, các tình huống khác , hay cần có thời gian để GV thiết kế giáo án điện tử, tìm kiếm thông tin liên quan đến Hoá học trên mạng - Nhà trường tôi có 1 phòng bộ môn Hoá học trang bị chưa đầy đủ nờn rất khú cho việc thực hành thớ nghiệm. Trong thực tế tuỳ từng mục đích của mỗi bài học, tôi đã sử dụng linh hoạt các thiết bị dạy học tối thiểu đã được cung cấp theo hướng hỗ trợ tạo điều kiện cho HS được hoạt động tích cực hơn. Tuy nhiên vẫn cần phải đảm bảo một số yêu cầu sau đây thì mới đạt được hiệu quả cao trong các giờ dạy: + Bảo đảm tính mục đích: Sử dụng thiết bị dạy học tối thiểu, máy tính và các phần mềm như là phương tiện giúp GV tổ chức và HS thực hiện các hoạt động học tập Hoá học theo hướng: HS chủ động xây dựng kiến thức và rèn luyện kĩ năng Hoá học. + Bảo đảm tính hiệu quả: Không coi thiết bị dạy học Hoá học, máy tính và phần mềm chỉ như là công cụ trình chiếu, trưng bày mà thực sự là nguồn để giúp HS tìm tòi, vận dụng kiến thức. + Bảo đảm tính thiết thực và phù hợp: Chỉ sử dụng thiết bị dạy học Hoá học tối thiểu, máy tính, phần mềm đa phương tiện phù hợp với nội dung, hình thức và phương pháp cụ thể của mỗi bài, chương. Không sử dụng tràn lan gây nặng nề cho bài học dẫn đến thiếu hiệu quả. + Kết hợp sử dụng thiết bị dạy học tối thiểu với việc ứng dụng công nghệ thông tin một cách linh hoạt, phù hợp đảm bảo tính hiệu quả của việc áp dụng dạy học tích cực. Ví dụ: Một số thí nghiệm hoá học có điều kiện GV làm hoặc HS thực hiện được thì không nên sử dụng hình ảnh thí nghiệm trong bài. Nên kết hợp phương pháp này với các phương pháp khác như phương pháp thí nghiệm, nêu và giải quyết vấn đề, học tập hợp tác theo nhóm nhỏ để tăng tính đa dạng và hiệu quả. Hai năm gần đây tôi tích cực sử dụng phương pháp này, kết hợp với việc tự rút kinh nghiệm qua mỗi giờ dạy, chất lượng của học sinh khi học môn Hoá học đã được nâng cao dần. Nhiều học sinh yêu thích môn học và hứng thú sôi nổi trong giờ học. Kết quả của học sinh qua các kỳ thi khảo sát đều đạt và vượt chỉ tiêu đề ra, có học sinh dự thi cấp tỉnh. III/ KIẾN NGHỊ -ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP: Với những khó khăn mà giáo viên thường xuyên gặp khi dạy Hoá học, để tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, tôi có một số đề nghị sau: -Có sự hỡ trợ cho giáo viên giảng dạy về việc chuẩn bị thiết bị dạy học cho học sinh. -Giáo viên cần thành thạo khi sử dụng thiết bị dạy học -Học sinh học Hoá học cần có phòng học thuận lợi cho việc làm thí nghiệm như bàn học bằng phẳng, chỗ ngồi rộng rãi, cú điện nước đầy đủ . Giải pháp cho các vấn đề trên: -Nhà trường có giáo viên chuyên phụ trách thiết bị dạy học giúp giáo viên chuẩn bị trước giờ lên lớp. -Có phòng học Hoá học và dụng cụ thí nghiệm và các thiết bị khác để gần phòng học, trang bị phòng học hợp lý cho giờ học Hoá học. HỒ MINH ĐƯƠNG - SKKN - THCS TÂN THẠNH, NĂM HỌC 2008-2009 - 4 -