SKKN Một số suy nghĩ khi rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh thông qua giảng dạy Hình học Lớp 8

doc 4 trang sangkien 27/08/2022 9800
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số suy nghĩ khi rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh thông qua giảng dạy Hình học Lớp 8", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_suy_nghi_khi_ren_luyen_tu_duy_sang_tao_cho_hoc_s.doc

Nội dung text: SKKN Một số suy nghĩ khi rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh thông qua giảng dạy Hình học Lớp 8

  1. Một số suy nghĩ khi rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh thông qua giảng dạy Hình học lớp 8 I/ Đặt vấn đề: Giảng dạy toán cho học sinh ở trường phổ thông nhằm: +Truyền thụ kiến thức +Rèn luyện kĩ năng giải toán +Rèn luyện tư duy +Bồi dưỡng các phẩm chất nhân cách Trong quá trình dạy học việc rèn luyện nhân cách sáng tạo cho học sinh là công việc vô cùng quan trọng. Việc tìm tòi lời giải bài toán chính là cơ sở cho việc rèn luyện khả năng làm việc độc lập sáng tạo cho học sinh. Môn hình học nói chung, môn hình học lớp 8 nói riêng là một bộ môn khó, đòi hỏi giáo viên phải co phương pháp thích hợp để gây được hứng thú trong học tập của các em. Khi giảng dạy giao viên giúp học sinh khai thác các tình huống của bài toán để có nhiều cách giải qua đó rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh. II/ Cơ sở thực tiễn: Là giáo viên dạy toán, tôi thấy dạy theo kiểu thầy đọc trò chép, dạy nhồi nhét, học sinh thụ động tiếp thu kiến thức thì không phát triển được óc tư duy sáng tạo của học sinh. Khi dạy một bài toán cần có phương pháp phù hợp để học sinh giải được nhiều cách khác nhau, qua đó rèn luyện được tính linh hoạt của trí tuệ, phát triển được năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh. III/Một số thí dụ về việc rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh: Ví dụ 1: Khi dạy định lý: “Đường phân giác trong của tam giác chia cạnh đối diện thành hai đoạn thẳng tỉ lệ với hai cạnh kề hai đoạn ấy”.(SGK lớp 8 trang 65). E Chứng minh: -Cách 1:(SGK) A BD AB - Cách 2: Dựng CE // AD => = DC AE Ta có: A = E1 (Đồng vị) B D C C1 = A2 (So le trong) Suy ra E = C1 AEC có E = C1 => AEC cân BD AB  AE = AC .Vậy = DC AC
  2. A K BD KB - Cách 3: Dựng DK // AC => = DC KA Ta có A1 = A2 B D C A2 = D1 (So le trong) => A1 = D1 => AKD cân => AK = KD BD KB BD KB KD // AC => = Hay : = (1) DC KA DC KD KB KD KB AB Mặt khác: KD // AC => = => = (2) AB AC KD AC BD AB Từ (1) và (2) suy ra: = DC AC Để hướng dẫn học sinh chứng minh nhiều cách ở định lí này gấio viên hướng dẫn học sinh phân tích theo hướng phân tích đi lên. Cụ thể là: BD AB BD m + Phần chứng minh: = ta cần chứng minh: = DC AC DC AC Lưu ý rằng B, D, C thẳng hàng. Từ đó dẫn tới việc qua B dựng BE // AC. để rồi chỉ rõ m = BE = AB. Vậy ta có cách 1. BD AB BD AB Để chứng minh = ta chứng minh = DC AC DC n Tương tự cách 1, dẫn tới việc qua C dựng CE // AD để có cách 2 BD AB k +Chứng minh = cần tạo ra tỉ số trung gian từ đó dẫn tới việc qua DC AC h D dựng DK // AC ta có cách 3. Thông qua việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu nhiều cách chứng minh khác nhau, từ bài toán ở sách giáo khoa tôi thấy học sinh học bài, giờ học sôi nổi hơn. Các em học sinh say mê tạo các phương án để tìm lời giải khác nhau cho bài toán. Giìơ giảng không bị thụ động vào sách giáo khoa, học sinh độc lập chủ động khai thác để có nhiều cách giải bài toán, qua đó phần nào đã rèn luyện tính linh hoạt sáng tạo của học sinh. Ví dụ 2: Chứng minh rằng:”Trong một tam giác cân, tổng khoảng cáchcủa một điểm bất kì trên đáy đếnhai cạnh bên thì không đổi” *Cách 1: - Dựng MK vuông góc BH. Xét tứ giác MKHQ có: K=M=Q=900 =. MKHQ là hình chữ nhật => KH = MQ (1) Xét BMP và MBK có: P = K = 900, BM chung A Mà KM // AC => BMK = C , mà C = B. H Vậy PBM = KMB Q => BMP = MBK (G.C.G) => KB = MB (2) P K Từ (1) và (2) suy ra KH + BK = MQ + MP = DH BH không đổi nên QM + MP không đổi B C
  3. *Cách 2: Dựng QR // BC A BR // MQ (Cùng vuông góc với AC) => BRMQ là hình bình hành => MB = QR (1) H Xét PMB và QHR có: R K H =P = 900; RQ = BM P (Cạnh hình bình hành RQMB) RQ // PC => HQR = HCB (Đòng vị) B M C => PBM = HQR => RH = PM (2) Vậy: PBM = HQR (G.C.G) Từ (1) và (2) => QM + PM = BR + RH = BH Không đổi * Cách 3: Dựng qua B đường BL vuông góc với MQ tại L. Tứ giác BHQL có H = Q = L = 900  BHQL là hình chữ nhật => LQ = BH A Xét PBM và LBM có: H P = L = 900 Q BM chung : BL // AC => LBM = C Mà: C = B => PBM = LBM P => PBM = LBM (G.C.G) => LM = MP B M C L Xét MP + MQ = LM + MQ = LQ = BH không đổi. Khi dạy học sinh bài toán này giáo viên gợi ý cho học sinh, khi cần chứng minh MP + MQ = BH. Để chứng minh BH = MP + MQ cần hướng dẫn học sinh suy nghĩ thành hai đoạn bằng MP, một đoạn bằng MQ. Từ đó ta có 3 cách chứng minh trên. IV/ Kết luận: Phương pháp rèn luyện khả năng sáng tạo của học sinh trong giải toán giúp học sinh hứng thú say mê học môn hình hơn, tạo lòng tin vào khả năng của mình, chất lượng học sinh tiến bộ rỏ rệt Qua thực tế giảng dạy tôi thấy, muốn đạt chất lượng cao trong bộ môn toán vai trò người thầy vô cùng quan trọng. Để đạt được mục đích học tâp đòi hỏi thầy phải học tập không ngừng tự bồi dưỡng để hoàn thiện mình. Trên đây là một số suy nghĩ của tôi trong việc rèn lưyện tư duy sáng tạo cho học sinh thông qua việc dạy toán Hình học 8 bằng hướng giải nhiều cách khác nhau. Tự bản thân mình cần phải cố gắng học hỏi nhiều hơn nữa. Xuân Trạch, ngày 18 tháng 5 năm 2007 Xác nhận của HĐKH nhà trường Người viết
  4. Lưu Trọng Hoà