Sáng kiến kinh nghiệm Hình thành tính tích cực, tự giác, chủ động và năng lực tự học giúp học sinh yếu kém học tốt môn Toán

doc 22 trang honganh1 15/05/2023 5462
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Hình thành tính tích cực, tự giác, chủ động và năng lực tự học giúp học sinh yếu kém học tốt môn Toán", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_hinh_thanh_tinh_tich_cuc_tu_giac_chu_d.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Hình thành tính tích cực, tự giác, chủ động và năng lực tự học giúp học sinh yếu kém học tốt môn Toán

  1. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Stt Chữ viết tắt Tên đầy đủ 1 GV Giáo viên 2 HS Học sinh 3 PPDH Phương pháp dạy học 4 SGK Sách giáo khoa 5 THCS Trung học cơ sở 1
  2. CHƯƠNG I: TỔNG QUAN I. CƠ SỞ LÍ LUẬN Học sinh yếu kém về toán là những học sinh có kết quả về môn toán thường xuyên dưới mức trung bình. Do đó việc lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng cần thiết đối với những học sinh này tất yếu đòi hỏi tốn nhiều công sức và thời gian hơn so với những học sinh khác. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay đã xác định “phương pháp dạy học Toán trong nhà trường các cấp phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động của người học, hình thành và phát triển năng lực tự học, trau dồi các phẩm chất linh hoạt , độc lập sáng tao của tư duy”.Bắt nguồn từ định hướng đó giáo viên cần phải học hỏi nghiên cứu, tìm tòi và áp dụng những phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng vùng miền, từng đối tượng học sinh, từng kiểu bài làm cho hiệu quả giờ học đạt cao nhất. Người thầy phải nắm vững các đặc điểm của học sinh yếu kém để từ đó đề ra các giải pháp phù hợp nhằm khắc phục tình trạng yếu kém trong học toán của học sinh. Cũng như việc bồi dưỡng học sinh giỏi toán, việc giúp đỡ học sinh yếu kém phải được tiến hành ngay cả trong những tiết dạy học đồng loạt bằng các biện pháp phân hoá nội tại thích hợp. Tuy nhiên, trong thực tế dạy học việc nâng cao hiệu suất giờ lên lớp để giúp đỡ học sinh yếu kém người thầy vẫn cần có sự giúp đỡ tách riêng đối với nhóm học sinh yếu kém (thực hiện chủ yếu ngoài giờ chính khoá). Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn Toán và tìm hiểu thực tiễn tại trường THCS Lang Sơn – Hạ Hòa – Phú Thọ tôi thấy còn nhiều học sinh chưa nắm vững được kiến thức cơ bản, ý thức học tập của một số em chưa cao, phương pháp học tập chưa phù hợp, dẫn đến chất lượng học tập của học sinh còn yếu vì thế hầu hết các em sợ học môn toán nói chung và phân môn Hình học nói riêng. Chất lượng bộ môn vẫn còn thấp, các bài kiểm tra, bài thi còn chưa đạt yêu cầu. Bằng thực tiễn trong giảng dạy và tìm hiểu đã có những ý kiến như: phân môn hình học khó tiếp thu, lượng kiến thức trong giờ học còn nhiều mà lại khô khan, không hấp dẫn Điều đó nãy sinh trong tôi những trăn trở: Là làm thế nào để nâng cao chất lượng bộ môn? Làm thế nào để học sinh hứng thú, say mê trong khi học? Có biện pháp gì để tạo hứng thú say mê tìm tòi sáng tạo, vận dụng những gì đã học vào thực tiễn? Với mong muốn tìm ra những đáp án đó, đã thúc đẩy tôi chọn và nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm "Một vài kinh nghiệm hình thành tính tích cực, tự giác, chủ động và năng lực tự học giúp học sinh yếu kém học tốt môn toán”. 2
  3. II. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN TẠO RA SÁNG KIẾN Cốt lõi của việc đổi mới PPDH ở trường THCS là giúp HS hướng tới việc học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Vì lẽ đó khi giảng dạy GV cần dựa vào 05 tiêu chuẩn chính lựa chọn PPDH: + Chọn những PPDH có khả năng cao nhất đối với việc thực hiện mục tiêu dạy học. + Lựa chọn các PPDH tương thích với nội dung. + Lựa chọn các PPDH dựa vào hứng thú, thói quen, kinh nghiệm của HS. + Lựa chọn các PPDH phù hợp với năng lực, điều kiện, thế mạnh của GV. + Lựa chọn các PPDH phù hợp với điều kiện dạy học. Trong quá trình thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã sử dụng những phương pháp sau : - Quan sát trực tiếp các đối tượng học sinh để phát hiện ra những vấn đề mà học sinh thấy lúng túng, khó khăn khi giáo viên yêu cầu giải quyết vấn đề đó. - Điều tra toàn diện các đối tượng học sinh khối 8 của trường tôi dạy để thống kê học lực của học sinh. Tìm hiểu tâm lý của các em khi học môn toán. - Nghiên cứu sản phẩm hoạt động của HS để phát hiện trình độ nhận thức, phương pháp và cách trình bày bài toán đặc biệt đi sâu vào những sai sót của các em khi làm bài để có biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục. - Thực nghiệm giáo dục trong khi giải bài mới, trong các tiết luyện tập, tiết ôn tập, tôi đã đưa vấn đề này ra hướng dẫn học sinh cùng trao đổi, thảo luận bằng nhiều hình thức khác nhau như hoạt động nhóm, giảng giải, vấn đáp gợi mở để học sinh khắc sâu kiến thức, tránh được những sai lầm trong khi giải bài tập. Yêu cầu học sinh giải một số bài tập theo nội dung trong sách giáo khoa rồi đưa thêm vào đó những yếu tố mới, những điều kiện khác để xem xét mức độ nhận thức và suy luận của học sinh. - Phân tích và tổng kết kinh nghiệm giáo dục khi áp dụng nội dung đang nghiên cứu vào thực tiễn giảng dạy nhằm tìm ra nguyên nhân những sai lầm mà học sinh thường mắc phải khi giải toán. Từ đó tổ chức có hiệu quả hơn trong các giờ dạy tiếp theo. Toán học có vai trò rất quan trọng đối với đời sống và các nghành khoa học khác. Hơn nữa đặc điểm về môn toán nội dung nhiều, công thức tính nhiều, 3
  4. bài tập thì đa dạng (có khó, có dễ, có phức tạp). Vì thế trong quá trình tính toán, vận dụng HS rất dễ bị nhầm lẫn, sai sót. Qua một số năm giảng dạy bộ môn toán và tham khảo ý kiến của các đồng nghiệp nhiều năm kinh nghiệm, tôi nhận thấy: Trong quá trình hướng dẫn học sinh giải toán thì sự vận dụng lí thuyết vào việc giải các bài tập cụ thể của học sinh chưa linh hoạt. Khi gặp một bài toán đòi hỏi phải vận dụng và có sự tư duy thì học sinh không xác định được phương hướng để giải bài toán dẫn đến lời giải sai hoặc không làm được bài. Một vấn đề cần chú ý nữa là kỹ năng giải toán và tính toán cơ bản của một số học sinh còn rất yếu. III. MỤC TIÊU Sở dĩ tôi chọn đề tài này là vì mong muốn tìm được một phương pháp tối ưu nhất để trong quỹ thời gian cho phép hoàn thành được một hệ thống chương trình qui định, nhằm lấp đầy các chỗ hổng kiến thức và từng bước nâng cao thêm về mặt kỹ năng trong việc giải các bài tập Toán cho học sinh. Từ đó phát huy, khơi dậy khả năng sử dụng hiệu quả kiến thức vốn có của học sinh, đồng thời thu hút, lôi cuốn các em ham thích học môn toán, đáp ứng những yêu cầu về đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học hiện nay. Hướng dẫn học sinh tiếp thu môn Toán nói chung, môn Hình học nói riêng đạt kết quả cao không phải là chuyện nói đến đâu làm ngay được đến đó. Muốn đạt hiệu quả giảng dạy đòi hỏi một mặt kiến thức của thầy phải vững, phải sâu, phải có phương pháp phù hợp; mặt khác đòi hỏi người thầy có kỹ năng, nghiệp vụ sư phạm khéo léo. Với đối tượng học sinh lớp 8 các em đã bắt đầu có biểu hiện của lứa tuổi “ tập làm người lớn” nên lời khen, lời động viên đối với các em phát huy hiệu quả không nhỏ. Bởi nó đã tác động vào thế giới tâm lí, tình cảm của các em khiến nảy sinh hứng thú về vấn đề đang được đặt ra hướng các em đến với những hành vi tự giác, chủ động và tích cực trong việc chiếm lĩnh tri thức. Đặc biệt với học sinh có biểu hiện chán học, khó tiếp thu hoặc không có tinh thần tiếp thu kiến thức sẽ khiến các em rơi vào tình trạng học sa sút. Bởi vậy người giáo viên phải dùng cái tâm của mình để giúp các em vượt qua trở ngại này vươn lên trong học tập. Khi xác định được mục đích, ý nghĩa lớn lao của vấn đề này mới có thể xây dựng được phương pháp phù hợp nhất. Bởi vậy biện pháp tạo hứng thú cho học sinh học phân môn Hình học 8 là một nội dung có tính chất quan trọng và lâu dài đối với nhà trường nói chung và từng giáo viên nói riêng. Khi xây dựng đề tài này bản thân tôi hướng đến mục đích cụ thể như vậy nhằm triển khai có hiệu quả phương pháp mà mình đã tích lũy qua nhiều năm làm công tác giảng dạy môn Toán cho học sinh THCS. 4
  5. CHƯƠNG II: MÔ TẢ SÁNG KIẾN I. NÊU VẤN ĐỀ CỦA SÁNG KIẾN 1. Phân tích, đánh giá thực trạng của vấn đề: Thực trạng hiện nay cho thấy vấn đề học sinh yếu kém ở các bộ môn rất trầm trọng. Trong đó môn toán không phải là ngoại lệ. Với vai trò quan trọng của bộ môn có tính quyết định đến chất lượng học tập các bộ môn khác. Hơn nữa chương trình toán THCS là những viên gạch đặt nền móng đầu tiên cho cả quá trình học tập sau này. Bản thân tôi là một giáo viên đã trực tiếp giảng dạy môn Toán 8 tôi thấy rằng: - Trong trường THCS môn Toán là môn khoa học luôn được chú trọng cao và cũng là môn có nhiều khái niệm trừu tượng. Nhất là phân môn Hình học có nhiều khái niệm trừu tượng nhất, bởi khi thực hiện các bài làm đối với hình vẽ lại phải “ mở rộng” các yếu tố như: vẽ thêm đường phụ để chứng minh, điểm, đường thẳng hay suy luận Kiến thức trong bài tập phong phú rất nhiều so với nội dung lí thuyết mới học. Bên cạnh đó yêu cầu bài học lại cao phải suy diễn chặt chẽ, lôgic. - Nếu phân môn Đại số các dạng bài tập thường có cách làm rất rõ ràng, chẳng hạn như: khi chia đa thức một biến đã sắp xếp, giải phương trình chứa ẩn ở mẫu thức, giải bài toán bằng cách lập phương trình thì SGK đưa ra các bước giải rất cụ thể ; thì phân môn Hình học lí thuyết vừa ít lại trừu tượng, các hướng đi cụ thể ít nên học sinh khó định hướng cách làm. Hơn nữa sự chênh lệch giữa kiến thức lí thuýêt với lượng bài tập và thời gian luyện tập lại quá lớn. Do đó rất khó khăn trong việc chữa bài tập cho học sinh làm ở nhà, chọn bài để hướng dẫn trên lớp sao cho đầy đủ kiến thức cơ bản mà SGK yêu cầu. - Học sinh khó khăn trong việc lập luận, suy diễn lôgic đã tạo nên thái độ miễn cưỡng, chán nản ở các em. Từ đó nhiều em không nắm được kiến thức cơ bản, làm bài tập ở nhà cũng chỉ đối phó, lúng túng trong việc chọn và sử dụng dụng cụ để vẽ hình Điều này cho thấy giáo viên phải bỏ nhiều công sức để nghiên cứu, chọn lọc cho mình một cách soạn giảng tốt nhất để tạo hứng thú cho học sinh trong bài giảng. Qua điều tra về mức độ hứng thú học môn Hình học của lớp 8A 1 đầu năm cho thấy kết quả: 5
  6. Số HS có hứng thú Số HS không có hứng thú Số HS SL % SL % 30 2 6,7% 28 93,3% Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm phân môn Hình học khiến bất cứ ai nhìn vào củng cảm thấy lo ngại ,cụ thể: Khá giỏi Trung bình Yếu kém Số HS SL % SL % SL % 30 2 6.7% 6 20% 22 73.3% Kết quả khảo sát đầu năm môn toán Số HS Giỏi Khá TB Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % 30 2 6,7 2 6,7 17 56,6 6 20 3 10 2. Các tồn tại, hạn chế: Trong thực tế giảng dạy môn toán lớp 8, bản thân tôi đã phát hiện những sai sót mà học sinh lớp 8 thường xuyên mắc phải khi trình bày bài toán số học, đó là: + Thiếu tính cẩn thận dẫn đến suy luận sai, sử dụng sai ký hiệu sai. + Trình bày bài toán không có cơ sở, thiếu lập luận hoặc lập luận không chính xác. + Trình bày bài làm một cách tuỳ tiện: Nhầm lẫn giữa các bước hoặc không biết cách trình bày, hoặc trình bày bài toán rập khuôn thiếu sự tư duy, linh hoạt từ một bài toán mẫu. - Kết quả bài kiểm tra một tiết chương I môn Số học năm học 2016 - 2017 như sau: Nội dung Tỷ lệ % + Thiếu tính cẩn thận dẫn đến suy luận sai, sử dụng sai ký 30% hiệu sai. + Trình bày bài toán không có cơ sở, thiếu lập luận hoặc 40% lập luận không chính xác. 6