SKKN Kinh nghiệm trong việc quản lý và giáo dục học sinh cá biệt trường Trung học cơ sở Nguyễn Văn Tiệp có hiệu quả

doc 16 trang sangkien 01/09/2022 5720
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Kinh nghiệm trong việc quản lý và giáo dục học sinh cá biệt trường Trung học cơ sở Nguyễn Văn Tiệp có hiệu quả", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_kinh_nghiem_trong_viec_quan_ly_va_giao_duc_hoc_sinh_ca.doc

Nội dung text: SKKN Kinh nghiệm trong việc quản lý và giáo dục học sinh cá biệt trường Trung học cơ sở Nguyễn Văn Tiệp có hiệu quả

  1. PHÒNG GDĐT TÂN HỒNG CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIÊT NAM TRƯỜNG THCS NGUYỄN VĂN TIỆP Độc lập – Tự do – Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NĂM 2013 -2014 Tên SKKN: Kinh nghiệm trong việc quản lý và giáo dục học sinh cá biệt trường Trung học cơ sở Nguyễn Văn Tiệp có hiệu quả. Tác giả: Văng Công Sâu Chức vụ, đơn vị, môn: Giáo viên Mĩ thuật, Tổ trưởng Tổ Nhạc – Họa – Thể dục, Trường Trung học cơ sở Nguyễn Văn Tiệp NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM I. Thực trạng và nguyên nhân: 1.Thực trạng: Thực tế cho thấy tình hình đạo đức học sinh hiện nay bị xuống cấp đến mức báo động và càng diễn biến phức tạp hơn, xuất hiện nhiều đối tượng với những hành vi táo tợn hơn như những trường hợp nhóm học sinh (HS) nữ đánh bạn lột cả quần áo ngoài đường; trường hợp thầy bị HS đánh, hâm dọa chém; cô giáo bị HS sỉ nhục, xúc phạm nhân phẩm; v.v Đây là những HS khó giáo dục hay nói cách khác là những học sinh cá biệt (HSCB). Lúc đầu những em này thường có thái độ và hành vi không phù hợp với giá trị, nội quy, truyền thống nhà trường, không làm tròn bổn phận và nhiệm vụ của người học sinh, thiếu văn hóa, vô đạo đức trong quan hệ ứng xử với mọi người, những em này rất khó dạy, thậm chí hư hỏng, rơi và con đường nghiện ngập ma túy và các tệ nạn xã hội.v v. Tuy nhiên trong số những HSCB đôi khi có những em tiềm tàng và cá tính, không có biểu hiện rõ, khó phát hiện nhiều khi GVCN cũng lầm tưởng nên chưa có được phương pháp giáo dục thích hợp. Những năm trước lớp tôi chủ nhiệm cũng rơi vào tình trạng có nhiều học sinh cá biệt, cụ thể năm học 2012- 2013: Năm học Lớp TS Số lượng HS ngoan Số lượng HS chưa ngoan (cá biệt) Số lượng Tỉ lệ (%) Số lượng Tỉ lệ (%) 2011-2012 8A3 35 27 77,1 8 22,9 2012-2013 6A6 34 22 64,7 12 35,3 2.Nguyên nhân: 1
  2. a. Do đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi - nguyên nhân chủ quan về phía bản thân các em: - Đối tượng HS trung học cơ sở ( THCS) là những con người đang trong quá trình phát triển: hiếu động, thích khám phá, biến đổi hằng ngày. Các em đang ở tuổi “dậy thì”, “tuổi khủng hoảng”, “tuổi khó bảo” do hệ tim mạch, hệ xương, hệ thần kinh hoạt động mạnh, tuyến nội tiết có sự phát triển nhanh, mạnh nhưng không cân đối làm cho các em gặp khó khăn trong học tâp và đời sống như: lóng ngóng, vụng về hay chóng mặt, nhức đầu, mệt mỏi, dễ bị ức chế hoặc dễ bị khích động. Tôi cho rằng tuổi của các em là tuổi "Ăn chưa no, lo chưa đến", suy nghĩ còn non nớt, nhận thức chưa sâu nhưng lại muốn khẳng định mình chính vì thế các em có những hành vi thiếu chuẩn xác, không phù hợp với các chuẩn mực của xã hội là điều không thể tránh khỏi. - Những HS cá biệt ta thường gặp phần lớn là những em có năng lực học tập yếu kém, điều đó cũng hoàn toàn dễ hiểu bởi nhận thức của các em chưa sâu thì làm sao có định hướng cho việc học tập tốt được. Việc hạn chế trong tiếp thu kiến thức của các em cũng dẫn đến sự lười biếng, chán nản, muốn phá phách, nhất là đối với HS nam. Xét ở một khía cạnh khác thì cũng có thể các em vì tự ái về sự chê trách của thầy cô và bè bạn, các em muốn chứng minh cho mọi người thấy rằng mình học không tốt nhưng mình có thể nổi trội hơn về mặt khác, hoặc các em muốn thầy cô chú ý mình hơn chẳng hạn, chính vì thế mà các em có những hành động vượt ra khỏi những quy định chung. b. Do ảnh hưởng từ sự giáo dục của gia đình : - Thời gian HS học tập, sinh hoạt ở nhà trường không nhiều, nhưng các hoạt động đều có sự quản lí, hướng dẫn của GVCN, GVBM, cán bộ lớp, nhà trường, đó là điều kiện để các em học tập tốt và rèn luyện nhân cách. Nhưng phần lớn thời gian các em sinh hoạt ở gia đình : tự học, lao động, vui chơi.v v. Đối với những HS thực sự tự giác trong học tập và được sự quản lí giáo dục của gia đình thì hầu hết các em đều có thời khóa biểu học tập ở nhà, ý thức được việc học tập ở nhà là thời gian giúp các em ghi nhớ lại bài cũ, luyện tập và nghiên cứu bài mới, chuẩn bị cho ngày học hôm sau, đồng thời tham gia giúp đỡ công việc gia đình. Còn ngược lại, đối với những HS chưa ý thức được việc học tập và gia đình không quan tâm, không tạo điều kiện cho các em học tập thì việc học tập của các em bị ảnh hưởng, chất lượng học tập giảm sút, thua kém bạn bè dẫn đến chán học, bỏ học . Như vậy, HSCB phát sinh từ những ảnh hưởng không tốt của môi trường giáo dục gia đình, đó là : * Gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn : Từ những khó khăn về đời sống kinh tế, cha mẹ phải lao động vất vả, không có thời gian quan tâm đến việc học tập của con em, giao cho ông bà hoặc chị em chăm sóc lẫn nhau, thiếu sự quản lí chặt chẽ của người lớn nên dể dàng nảy sinh những tư tưởng không lành mạnh, từ đó ham 2
  3. chơi mà trốn học. Hoặc có nhiều gia đình buộc con cái phải lao động làm cho các em không có thời gian học tập ở nhà như soạn bài, học bài cũ, do đó khi đến lớp việc tiếp thu bài mới rất khó khăn, không làm được bài kiểm tra, lo lắng sợ sệt khi thầy cô giáo kiểm tra bài cũ .v.v. từ đó thua sút bạn bè và phát sinh tâm lí chán học dẫn đến bỏ giờ trốn học, bỏ học . * Gia đình chỉ lo làm ăn, không quan tâm đến việc học của con cái : Thực tế, có nhiều gia đình tuy không khó khăn về kinh tế nhưng có tham vọng làm giàu, bỏ mặc, không quan tâm đến việc học tập của con cái kể cả những thói hư tật xấu của con cha mẹ cũng không cần biết đến để răn dạy và dần dần dẫn đến việc các em trốn học, bỏ học là điều tất yếu. * Gia đình có cha mẹ bất hòa, không hạnh phúc : Lứa tuổi các em rất nhạy cảm, những cuộc cải vã của cha mẹ, sự to tiếng quát nạt, bạo lực của người cha làm cho các em dần dần bị ảnh hưởng, từ đó nẩy sinh những việc làm không lành mạnh, thích đánh nhau để giải tỏa tâm lý, bị ức chế, bỏ nhà đi chơi không thiết tha đến việc học và lực học giảm sút dẫn đến chán học, bỏ học. Ngoài ra, gặp hoàn cảnh gia đình có người cha nát rượu hoặc người mẹ cờ bạc cũng ảnh hưởng rất lớn đến HS làm các em trở thành HSCB . c. Do ảnh hưởng của sự phát triển xã hội theo cơ chế thị trường : Xã hội phát triển là điêù đáng mừng, nhưng khi phát triển theo cơ chế thị trường nó kéo theo một số hoạt động không lành mạnh khác như dịch vụ giải trí, phim ảnh ảnh bạo lực, tình cảm lứa đôi quá trớn và do sự quản lí chưa chặt chẽ của nhà nước, các dịch vụ bida, internet, karaokê .v.v được tổ chức gần trường học, lôi cuốn, hấp dẫn các em vào các trò chơi vô bổ. Đồng thời các kênh truyền hình chiếu một số bộ phim với những hình ảnh bạo lực, tình cảm, bi lụy quá mức làm cho các em dễ dàng bắt chước và lao vào các trò chơi đó dẫn đến bỏ giờ trốn học và những vi phạm khác. d. Do yếu tố sinh học: - Một số em sinh ra đã có vấn đề về thần kinh, não bộ kém phát triển thích gây gỗ, hung hăng, đánh nhau.v.v. và cũng có thể do cha mẹ yếu về thể chất, tinh thần dẫn đến các em bị ảnh hưởng. Từ việc nghiên cứu các dạng HS cá biệt và những nguyên nhân dẫn đến thực trạng ấy, tôi tìm ra những phương pháp khả thi để từng bước cảm hoá giáo dục các em. Sau đây là một vài kinh nghiệm của bản thân trong việc giáo dục HSCB mà tôi muốn trao đổi cùng đồng nghiệp qua đề tài này: II. Biện pháp, giải pháp quản lý và giáo dục học sinh cá biệt: 1. Một số kinh nghiệm trong công tác quản lý học sinh cá biệt: a. Sắp xếp chổ ngồi: Một công việc rất quan trọng mà GVCN phải thực hiện ngay từ đầu năm học là phải xem trước học bạ của từng HS trong năm học trước để nắm được học lực, hạnh kiểm của từng em. Khi 3
  4. sắp chỗ ngồi nên chia đều những HS có học lực khá, giỏi ngồi xen lẫn với những HS có học lực trung bình. Nếu thấy trong lớp có những HS bị ghi trong học bạ là hạnh kiểm chưa tốt hoặc HS lưu ban nên xếp chỗ ngồi cho các em ở những dãy bàn đầu để tiện quan sát, theo dõi. Sau khi xếp chỗ ngồi xong GVCN lập sơ đồ lớp và dán tại bàn giáo viên để giáo viên bộ môn tiện theo dõi. *Lưu ý: Nếu trong lớp đã có HSCB thì không nên cho các em ngồi gần nhau. Không nên cho các em tùy tiện chọn chỗ ngồi, vì những HS ham chơi, hay đùa giỡn thường thích ngồi gần nhau. b. Bầu ban cán sự lớp (BCS): Khi GVCN đã nắm được học lực, hạnh kiểm của HS sẽ lựa chọn ra những em có đủ phẩm chất đạo đức để bầu làm lớp trưởng, các lớp phó và các tổ trưởng, tổ phó. Đây là vấn đề rất cần thiết để giao trách nhiệm cho BCS lớp thay mặt GVCN điều hành, quản lý lớp. Trong quá trình giao nhiệm vụ, nếu thấy trong BCS những HS nào không làm tốt sẽ thay bằng HS khác để tiếp tục quản lý lớp. Lưu ý: Tránh trường hợp HS không đủ năng lực nhưng GVCN vẫn bắt buộc phải làm lớp trưởng hoặc lớp phó, từ đó làm ảnh hưởng đến tinh thần học tập của các em và tạo điều kiện cho những mầm móng HSCB khác xuất hiện. Và cuối học kì phải tổng kết khen thưởng BCS lớp và có kế hoạch điều động, bổ nhiệm lại một số chức danh nhằm giáo dục ý thức tự quản lớp c. GVCN xây dựng nội quy lớp: Ngoài việc GVCN phổ biến cho HS biết về Nội quy nhà trường bắt buộc HS phải thực hiện, bên cạnh GVCN cùng HS đề ra nội quy riêng cho lớp để các em thực hiện. Có thể ở mỗi lớp GVCN xây dựng nội quy lớp khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm, tình hình của lớp. d. Xây dựng quy ước thi đua giủa các tổ: GVCN cùng cả lớp đưa ra than điểm thi đua, cuối mỗi tuần có tổng kết báo cáo, có thưởng và phạt rõ ràng, nghiêm túc, công bằng và công khai. e. Thiết kế biểu mẫu quản lí – giáo dục: GVCN phải thực hiện các loại biên bản : - Biên bản sinh hoạt chủ nhiệm. - Biên bản HS bỏ học. - Biên bản HS vi phạm nội quy, tờ cam kết, bảng tự kiệm điểm f. Quản lý hồ sơ chủ nhiệm: - Quản lý cận thận sổ đầu bài vì có những trường hợp GVBM ghi tên các em vào sổ đầu bài các em sợ GVCN phê bình vậy là thủ tiêu sổ. GVCN phải phân công lớp trưởng ghi chép cẩn thận và nộp về bộ phận Đội theo quy định. - Quản lý ghi chép sổ chủ nhiệm rõ ràng, cận thận và đầy đủ các thông tin. 4
  5. - Quản lý, nhận xét HS qua tin nhắn, phiếu liên lạc điện tử thường xuyên, đúng thực tế nhưng phải mang tính khích lệ các em phấn đấu học tập tốt hơn. Khi phát phiếu liên lạc cho HS yêu cầu các em phải đưa gia đình xem có ý kiến phản hổi nộp lại cho GVCN đầy đủ. 2. Một số kinh nghiệm trong công tác giáo dục học sinh cá biệt: - Nhiệm vụ của trường học là “dạy” và “ dỗ”, giáo dục các em HS nên người, kể cả HSCB. Giáo dục HSCB là một thử thách, bản lĩnh, và thể hiện lòng vị tha của thầy, cô. Cải tạo HS hư thành con ngoan trò giỏi, công dân tốt, để xã hội bớt đi một người xấu. Một trường học, lớp học, xuất phát điểm có nhiều HSCB, nhưng hết năm học “gánh nặng” đó đã không còn mà thay bằng những HS chăm ngoan cho lớp, cho trường, cho gia đình. Nghề dạy học vốn là nghề “sáng tạo trong các nghề sáng tạo” và nói theo cách nói của thầy thuốc: thầy phải “chẩn” đúng bệnh, dùng loại thuốc “đặc trị” phù hợp mới cứu được con “bệnh” cá biệt. Công lao của thầy, cô rất lớn. Vinh quang của nghề dạy học là ở chỗ đó. Xã hội đánh giá nghề dạy học là “nghề cao quý trong các nghề cao quý” nghề “ trồng người” cũng vì lẽ đó. - “Học sinh cá biệt” là những nhân tố ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của lớp, của trường và cũng ảnh hưởng đến việc học tập và rèn luyện của lớp. Điều này thì chúng ta rất dễ nhận thấy nhưng sâu xa hơn nếu một HSCB không được giáo dục tốt thì sẽ có thêm một mảnh đời éo le, một gia đình bất hạnh, một địa bàn bất ổn, xã hội sẽ có thêm một công dân không tốt. Và lẽ dĩ nhiên một nhà trường tồn tại nhiều HSCB thì sẽ không phát triển. - Nhiều năm làm công tác chủ nhiệm tôi nhận thấy GVCN với bao trách nhiệm nặng nề: làm chiếc cầu nối giữa nhà trường và HS, gia đình HS; giữa GVBM và các em. GVCN không chỉ là người thầy mà trong những tình huống khác còn là người cha, người mẹ, người bạn, là chỗ dựa tinh thần của HS, phải luôn tận tâm với học trò, phải có chuyên môn cao, yêu nghề , phải có “cái tâm” và “cái tài”.“Tâm” của người GVCN là xem các em như con cháu, không ngại tốn thời gian công sức cho lớp mình phụ trách mà còn là tâm huyết tha thiết yêu nghề, tập trung cho từng hành động nhỏ nhất của mình từ lời ăn tiếng nói, ăn mặc, hành động, chăm chút cho từng tiết giảng, từng cử chỉ của mình. “Tài” là tùy theo đặc điểm tình hình lớp mà có những biện pháp để quản lý giáo dục HSCB thích hợp. - Một việc làm rát quan trọng của GVCN nữa là đầu năm khi nhận lớp phải phân loại HSCB ví dụ: + Đối tượng 1: Gây gổ đánh nhau, kết bè thành băng nhóm, hút thuốc, thậm chí là nhậu nhẹt kể cả HS nữ. + Đối tượng 2: Cúp tiết, mê game, nghỉ học không phép nhiều ngày dẫn đến học tập sa sút có nguy cơ nghỉ học luôn. 5