Sáng kiến kinh nghiệm Ứng xử của giáo viên với học sinh

doc 9 trang sangkien 29/08/2022 8601
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Ứng xử của giáo viên với học sinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ung_xu_cua_giao_vien_voi_hoc_sinh.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Ứng xử của giáo viên với học sinh

  1. I. Tác giả: Họ Và tên: Trương Thị Dương Chức danh : Giáo viên Địa chỉ : Trường THCS Phú Long II. Nội dung A/ Đặt vấn đề 1. Lí do chọn đề tài: Đối với mỗi người giáo viên việc giảng dạy và giáo dục học sinh có thuận lợi và đạt được kết quả tốt hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc ứng xử của người thày đối với các học trò của mình. Tôi chọn đề tài này để nghiên cứu vì thiết nghĩ đây là vấn đề có yếu tố quyết định đến quan hệ thày trò - mối quan hệ luôn gắn bó với cuộc đời mỗi người thày giáo. Dạy học là một nghệ thuật, và trong môn nghệ thuật này những ứng xử giữa thày trò luôn có một vị trí đặc biệt quan trọng. 2. Mục đích nghiên cứu: Ngoài những quan hệ trong cuộc sống gia đình hàng ngày người học sinh cũng như người giáo viên phải tiếp xúc với khá nhiều các quan hệ có tính chất xã hội ở nhà trường, ở xã hội. Những quan hệ giữa học sinh với học sinh, giữa học sinh với thày giáo, không phải là quan hệ ruột thịt mà là quan hệ xã hội, quan hệ chức năng do vậy nó có những nét riêng trong cách ứng xử. Đi sâu nghiên cứu đề tài này tôi nghĩ không nhằm mục đích gì khác ngoài việc rút ra những kinh nghiệm, những cách ứng xử để cho bản thân là một người giáo viên, cũng như các đồng nghiệp của mình ngày càng khéo léo gần gũi học sinh hơn, cố gắng để không mắc phải những sai lầm không đáng có trong ứng xử thày trò. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu: Xuất phát từ mục đích trên. Tác giả nghiên cứu vấn đề "ứng xử của giáo viên với học sinh" nhằm làm rõ hơn mối quan hệ thày - trò là quan hệ giữa người dạy và người học. Nhiệm vụ trọng đại của người thày giáo là giáo dục, rèn luyện học sinh trở thành người có ích cho xã hội. Trong quá trình giáo dục học sinh người thày cần phải có sự khéo léo ứng xử. Do đó đề tài này nhằm thực hiện nhiệm vụ: tìm hiểu các tình huống thực tế, kinh nghiệm ứng xử và từ đó rút ra những bài học cho bản thân và đồng nghiệp 4. Đối tượng nghiên cứu: Trong mối quan hệ thày - trò, ở đây đối tượng cần được nghiên cứu là người giáo viên - những kỹ sư tâm hồn - người ươm những mầm xanh cho tổ quốc và học sinh - những thế hệ măng non, những người chủ tương lai của đất nước, chủ của những kiến thức và khoa học kỹ thuật tiến bộ; Những giao tiếp và cách giải quyết những vấn đề giữa thày và trò, những tình huống ứng xử sư phạm đã mang lại những kết quả tốt, thậm chí có thể làm nên bước ngoặt mở lối cho cuộc đời một Người thực hiện: Trương Thị Dương. Đơn vị: THCS Phú Long 1
  2. con người. Cũng có những tình huống do ứng xử không tốt gây nên những chuyện đáng buồn. Trong đề tài này ta sẽ nghiên cứu về vấn đề đó. 5. Phạm vi nghiên cứu: Cũng không có tham vọng nhiều. Tôi thấy đây là một vấn đề lớn nhưng vì điều kiện thực tế nên luôn xác định phạm vi chính là giữa mình, giữa các đồng nghiệp trong cơ quan với học sinh của địa phương mình và những gì nghe thấy, gặp thấy ở các trường xung quanh. B/ Giải quyết vấn đề 1/ Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu Từ lâu vấn đề ứng xử trong quan hệ người – người trong xã hội, nhất là trong quan hệ thày – trò được nhiều nhà tâm lí học và giáo dục quan tâm. Để có được thành công trong các quan hệ đó, các nhà tâm lí học cho rằng mỗi chúng ta cần có sự khéo léo ứng xử. Bàn về sự khéo léo ứng xử K.D.Uskinxki nhà sư phạm vĩ đại người Nga đã khẳng định rằng “Sự khéo léo ứng xử về sư phạm mà nếu không có nó thì các nhà giáo dục học dù có giỏi đến mức nào cũng không bao giờ trở thành nhà giáo dục tốt”. Sự khoé léo ứng xử – có nghĩa là sự tiếp xúc là cảm giác về mức độ – nhờ đó mà có khả năng giữ mình một cách đúng đắn. vậy ứng xử là gì ? ứng xử là một từ ghép của từ “ứng” và “xử”, mà “ứng” và “xử” lại bao gồm nhiều nghĩa khác nhau như: ứng phó, ứng đáp, ứng đối và ứng biến; và xử: xử sự, xử lí, xử thế như vậy “ứng xử là sự phản ứng của con người với sự tác động của người khác đến mình trong một tình huống cụ thể nhất định. Nó thể hiện ở chỗ con người không chủ động giao tiếp mà chủ động trong phản ứng có lựa chọn, có tính toán, thể hiện qua thái độ, hành vi cử chỉ, cách nói năng – tuỳ thuộc vào tri thức, kinh nghiệm và nhân cách của mỗi người nhằm đạt kết quả giao tiếp cao nhất. ứng xử được thể hiện trong một tình huống giao tiếp cụ thể, song không phải mọi sự giao tiếp đều có sự ứng xử xảy ra. Thiết nghĩ nghiên cứu sự ứng xử Thày – trò là rất cần thiết để phản ánh sự tác động của một tình huống giao tiếp cụ thể, lựa chọn thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng thích hợp nhằm đạt kết quả trong sự giao tiếp giữa thày và trò. 2/ Cơ sở thực tế của vấn đề nghiên cứu: Dân tộc ta từ xa xưa đã có truyền thống tôn sư trọng đạo. Trong con mắt người học trò người thày có một vị trí vô cùng quan trọng là hình ảnh mẫu mực để các trò noi theo nên trong ứng xử với thày các trò luôn luôn tôn kính; ngược lại người thày cũng luôn hết lòng hết sức không quản vất vả để bằng mọi cách giúp những người học trò của mình ngày càng tiến bộ. Người thực hiện: Trương Thị Dương. Đơn vị: THCS Phú Long 2
  3. Ngày nay, ảnh hưởng của cơ chế thị trường đời sống kinh tế đã tác động không nhỏ đến mối quan hệ thày – trò . Nhiều học sinh vô lễ xúc phạm các thày cô giáo, những người thày đã đánh mất mình, không nghiêm túc trong đánh giá kết quả học sinh, đánh chửi học sinh gây ra nhiều chuyện buồn lòng. Với thực trạng học sinh ở Phú Long, đa số các em được cha mẹ quan tâm, thày cô nhiệt tình dạy dỗ chỉ bảo hầu hết các em đều lễ phép, chăm ngoan. Tuy nhiên cá biệt cũng có những học sinh nghịch ngựm, vô lễ với các thày cô giáo mà ở đó có một phần lỗi của người thày, bắt đầu xuất phát từ vấn đề ứng xử Thày – trò , chưa tạo được cho học sinh sự kính phục, niềm tin, động cơ học tập. 3/ Các giải pháp, ý kiến của tác giả ứng xử của người thày chỉ có kết quả khi hiểu được đặc điểm của tạp thể, của lứa tuổi, của từng em và cần phải nắm được hoàn cảnh của từng em. Trên cơ sở đó có cách ứng xử phù hợp với từng học sinh , với tập thể lớp. Mặt khác người thày phải thực sự là tấm gương sáng về trí tuệ và đạo đức đối với học sinh. Nếu người thày không có uy tín về đạo đức và trí tuệ đối với học sinh thì mọi cố gắng trong ứng xử của thày đều kém hiệu quả. Người thày bị mất tác dụng trước học sinh thường do những nguyên nhân sau: + Thoả mãn với những tri thức đã có, không vươn lên trong học tập chuyên môn + Trong quan hệ hàng ngày thường là người thờ ơ, thiếu trách nhiệm với công việc chung. + Trong quan hệ với đồng nghiệp, với những người xung quanh thiếu chân tình. + Trong gia đình là người là người thiếu trách nhiệm với người thân. ứng xử của thày với trò trong quan hệ Thày – trò được thể hiện trong công tác giảng dạy, công tác giáo dục học sinh a/ Trong công tác giảng dạy: “Người thày giáo hầu như đứng giữa một vòng chằng chịt những mảnh gương hàng trăm con mắt sắc sảo, dễ cảm xúc, biết ghi lại một cách kì diệu tất cả những ưu khuyết điểm của họ” – Kalinin. Tính tích cực của học sinh trong giờ lên lớp không chỉ phụ thuộc vào trình độ tinh thông khoa học và nghệ thuật sư phạm của giáo viên mà còn phụ thuộc vào thái độ của giáo viên đối với học sinh. Sự dịu dàng, khéo léo tế nhị, sự nghiêm khắc khi cần thiết, sự ân cần thể hiện qua ánh mắt, nụ cười đều có ý nghĩa nhất định đối với học sinh. Trong giờ lên lớp, giáo viên cần giữ thái độ nhịp độ vừa phải. Không nên gay gắt, nói to nhất là khi vấn đáp học sinh, khi giả thích và củng cố kiến thức. Sự bình tĩnh, kiên trì là rất cần thiết đối với giáo viên trong giờ Người thực hiện: Trương Thị Dương. Đơn vị: THCS Phú Long 3
  4. lên lớp, nhất là đối với học sinh trả lời ấp úng, chưa rõ vấn đề. Giáo viên phải kiên trì lắng nghe học sinh trình bày cho dù việc đó làm mát thời gian. Không nên nóng nảy mạt sát học sinh. Làm như vậy sẽ đưa đến chỗ ghét giáo viên và ghét bộ môn của giáo viên dạy. Khi tiếp xúc với học sinh cũng như khi giao tiếp với học sinh trong giờ lên lớp giáo viên cần chú ý mấy điểm sau: - Nhịp điệu của làm việc của giáo viên nên vừa phải không nên tỏ ra vội vàng luống cuống. - Cần coi học sinh là nhân vật trung tâm trong quá trình dạy học. Mọi hoạt động của người thày, từ việc xác định mục tiêu của bài dạy đến việc sắp xếp nội dung, lựa chọn phương pháp, hình thức dạy học phải căn cứ vào đặc điểm phát triển tâm lí nói chung và khả năng nhận thức của học sinh. Cần tạo điều kiện cho học sinh tự giác, tích cực hoạt động nhằm chiếm lĩnh kiến thức. Kalinin, nhà giáo dục người Nga nói: Người thày giáo tồi là người mang chân lí đến cho học sinh, người thày giáo giỏi là người tổ chức cho học sinh tự tìm kiếm chân lí. - Khi giáo viên sai lầm thì thành thật xin lỗi học sinh. - Vẻ mặt của giáo viên quá lạnh lùng, hoặc sự vồn vã quá mức sẽ gây lúng túng cho học sinh, điều đó sẽ không tạo ra không khí làm việc thâm mật trong lớp. Theo Makarencô (nhà giáo dục Nga), để có không khí làm việc thâm mật trong giờ lên lớp thì khi vào lớp người thày phải có bộ mặt rạng rỡ, nhiệt tình khi nhìn toàn lớp, nhìn từng người, ai cũng thấy được thày để ý, được thày quan tâm, tất cả đều ở trong tầm mắt của thày. - Khi vào lớp , quan sát cả lớp rồi chào các em, và có thái độ gần gũi với học sinh từ đầu đến cuối giờ lên lớp. - Quan sát học sinh, thấy em nào vắng mặt cần nhẹ nhàng hỏi: “Bạn Hoa còn ốm à ?”, “Chắc bạn Huy có việc nên đến muộn”. - Trước khi kiểm tra bài nên nói: “Tất cả đã sẵn sàng rồi chứ – nhưng kìa trên bàn của A còn bề bộn những gì thế kia”. - Khi giáo viên trả bài kiểm tra, học sinh nào điểm tốt nên nêu gương, học sinh nào điểm thấp nên động viên. Tuỳ từng em mà giáo viên đề ra những yêu cầu phù hợp. Khi nhận xét học sinh, giáo viên nên tế nhị khéo léo khích lệ tính tích cực của học sinh : “ồ, em trả lời có nhiều ý đúng (gần đúng), em xem còn thiếu gì nữa không ?” hoặc “tôi cho em điểm 6, đáng lẽ ra em còn khá hơn, hãy cố gắng lên hy vọng lần sau em sẽ đạt điểm cao hơn” Xỉ vả học sinh không có lợi ích gì, chỉ làm cho học sinh thêm ngại học, chán học mà thôi Người thực hiện: Trương Thị Dương. Đơn vị: THCS Phú Long 4
  5. Sự khéo léo ứng xử của giáo viên, làm tăng uy tín các giáo viên đối với học sinh, làm cho các em lạc quan tin tưởng vào sự cố gắng của mình và quý trọng giáo viên hơn. Lạc quan, tin tưởng vào sự tiến bộ của học sinh là rất cần thiết, không nên định kiến với học sinh . “ Trong cuộc họp hội đồng giáo viên người ta nêu tên em B, một học sinh lưu ban lớp 8 đã xúc phạm cô giáo. Hội đồng quyết định kỷ luật em. Nhưng nguyên nhân nào đã dẫn đến sự xúc phạm này ? Cô giáo trả bài kiểm tra, B vui mừng được điểm 8, em rất sung sướng với thành tích hiếm có này, nhưng niềm vui chưa được mấy chốc: - B, có lẽ nào em tự làm được bài? Cô giáo nói – em hãy lên bảng giải một bài khác. B không giải được, kết quả là trong sổ điểm, điểm 1 lập tức thay cho điểm 8, cậu bé tức giận không làm chủ được đã văng tục với cô giáo. b/ Trong công tác giáo dục Công tác giáo dục là một vấn đề phức tạp đối với giáo viên, nhất là giáo viên chủ nhiệm. Cũng như trong công tác giảng dạy, việc ứng xử của giáo viên đối với học sinh chỉ có hiệu quả khi có sự hiểu biết học sinh, tôn trọng nhân cách các em, khi có uy tín về chuyên môn, về đạo đức và lối sống đối với học sinh, và chỉ khi có kinh nghiệm nghề nghiệp. Trong quan hệ ứng xử người thày cần nhìn nhận, ứng xử vứi học sinh như con cháu anh em và bạn bè. Tuy nhiên với mỗi lứa tuổi, mỗi cấp học, mỗi học sinh cần phải có cách ứng xử riêng. Đối với học sinh trung học cơ sở – các em đã có những biến đổi đáng kể trong đời sống tâm lý: chưa phải là người lớn nhưng cũng không còn là trẻ con nữa. Các em có xu hướng làm người lớn, muốn được người lớn tôn trọng và xác nhận những việc các em đã làm cho tập thể và xã hội. Chúng ta (các thày cô giáo) không thể ứng xử với các em như với học sinh tiểu học, mà cần thay đổi cách ứng xử phù hợp với lứa tuổi các em: tôn trọng, yêu cầu cao, và sự cảm thông. Trước giờ học, một cô giáo dạy lớp 9 thu tiền học phí của học sinh và kẹp vào một cuốn sách để trên bàn. Trong giờ giải lao cô đếm lại tiền để nộp cho nhà trường thì thấy thiếu 50.000đ. Những học sinh có mặt tại lớp đều đồng thanh: - Chắc bạn nào lấy trộm. - Rõ ràng cô mất tiền không thể nào khác được. Cô giáo bình tính nói trước lớp. Sau giờ học một cậu học sinh đến tìm cô giáo và nói thầm: - Thưa cô ! Em đã lấy tiền của cô. Em xin lỗi cô, em sẽ không bao giờ làm như thế nữa. Khi nào có tiền em xin hoàn trả lại cho cô. - Em lấy để làm gì ? Cô giáo hỏi. - Em muốn chạy tiền thuốc cho mẹ vì mẹ em đang bị ốm nặng. Người thực hiện: Trương Thị Dương. Đơn vị: THCS Phú Long 5