Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy Hóa học 10
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy Hóa học 10", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_su_dung_ban_do_tu_duy_trong_day_hoa_ho.doc
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy Hóa học 10
- LỜI CAM ĐOAN Bằng những kiến thức và kinh nghiệm tích lũy được của bản thân , trong năm học 2011 – 2012 chúng tôi đã vận dụng những giải pháp nêu trong đề tài này vào quá trình giảng dạy của mình trên các lớp 10A3, 10A4, 10A6 thuộc trường THPT Kim Bôi . Trong các tiết dạy của mình khi vận dụng những giải pháp đó, chúng tôi đều báo cáo với tổ chuyên môn và mời đồng nghiệp dự giờ rút kinh nghiệm để đánh giá hiệu quả của giải pháp đang vận dụng vào tiết dạy của mình . Chúng tôi xin cam đoan : những nội dung trong đề tài là do chúng tôi tự nghiên cứu và tự viết trên cơ sở tham khảo các tài liệu có liên quan, không phải là sự sao chép hay ăn cắp đề tài của người khác và đã vận dụng vào thực tế trong năm học 2011 – 2012 ở trường THPT Kim Bôi. Nếu có gì gian dối thì chúng tôi xin hoàn toàn chịu mọi hình thức kỷ luật theo quy chế của nghành . Nhóm thực hiện Đặng Thị Nguyệt Trần Tuyết Nga Bùi Minh Thắng 1
- PHẦN THỨ NHẤT : ĐẶT VẤN ĐỀ Hóa học cũng như bất cứ môn học nào khác ở nhà trường đều cung cấp kiến thức khoa học, hình thành thế giới quan khoa học cho HS và đóng góp vai trò quan trọng trong việc phát triển tư duy người học. Trong quá trình giảng dạy, người thầy luôn phải đặt ra cái đích, đó là giúp HS nắm vững kiến thức cơ bản, hình thành phương pháp, kỹ năng, kỹ xảo, tạo thái độ và động cơ học tập đúng đắn để HS có khả năng tiếp cận và chiếm lĩnh những nội dung kiến thức mới theo xu thế của thời đại và giải quyết phù hợp các vấn đề nảy sinh. Hóa học là môn khoa học tự nhiên, nghiên cứu tính chất, sự vật, hiện tượng có tính ứng dụng thực tiễn cao. Trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy bộ môn Hóa học ở trường THPT Kim Bôi, chúng tôi nhận thấy rằng HS gặp khó khăn khi phải ghi nhớ các khái niệm, định nghĩa, tính chất của các chất việc ghi nhớ của các em gần như tái hiện lại nguyên văn trong SGK làm cho việc học tập trở nên nhàm chán, máy móc, thụ động, không sáng tạo. Để nâng cao chất lượng dạy học, cần phải đổi mới phương pháp dạy học các môn học ở trường phổ thông nói chung và môn Hoá học nói riêng. Công nghệ thông tin được ứng dụng vào môn hoá học đã góp phần cải thiện sự nhàm chán và gây hứng thú học tập bộ môn cho HS. Song điều kiện cơ sở vật chất của phần lớn các trường THPT ở miền núi chưa đáp ứng được yêu cầu (thiếu phòng bộ môn, thiếu đèn chiếu, hay bị mất điện, dụng cụ - hoá chất không đầy đủ ). Để đa dạng hóa các hình thức dạy học, để khắc phục sự thiếu thốn của cơ sở vật chất, để khắc sâu kiến thức trong bộ não một cách lôgic mà lại phát huy được khả năng tiềm ẩn trong bộ não của HS, trong quá trình giảng dạy của mình, chúng tôi thường hướng dẫn HS ghi nhớ bài học dưới dạng từ khóa và chuyển cách ghi bài truyền thống sang phương pháp ghi bài bằng BĐTD. Chúng tôi thấy phương pháp này là thực sự cần thiết nhằm giúp HS rút ngắn thời gian học, giúp các em dễ nhớ, nhớ lâu, dễ dàng hệ thống hoá kiến thức với lượng lớn, đồng thời phát triển 2
- tư duy cho các em. Vì vậy, chúng tôi đã đưa phương pháp dạy học bằng BĐTD vào áp dụng cho các tiết học lí thuyết và luyện tập trong chương trình Hoá học lớp 10. 3
- PHẦN THỨ HAI : NỘI DUNG 1. Cơ sở khoa học Bản đồ tư duy do Tony buzan là người đầu tiên nghiên cứu tìm ra hoạt động của não bộ và ứng dụng vào cuộc sống. Bản đồ tư duy ( còn gọi là sơ đồ tư duy hay lược đồ tư duy ) là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức, bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Theo các nhà nghiên cứu, thông thường ở trường phổ thông, HS mới chỉ sử dụng bán cầu não trái ( thông qua chữ viết, kí tự, chữ số, ) để tiếp thu và ghi nhớ kiến thức mà chưa sử dụng bán cầu não phải ( nơi ghi nhớ thông tin kiến thức thông qua hình ảnh, màu sắc ) tức là mới chỉ sử dụng 50% khả năng của não bộ. Kiểu ghi chép của BĐTD thể hiện bằng hình ảnh, đường nét, màu sắc được trải theo các hướng không có tính tuần tự và có độ thoáng nên dễ bổ sung và phát triển ý tưởng. Vì vậy, việc sử dụng BĐTD là một công cụ hữu ích cả trong giảng dạy của giáo viên và trong học tập của HS. Bản đồ tư duy có những ưu điểm sau : - Lôgic, mạch lạc. - Trực quan, dễ nhìn, dễ hiểu, dễ nhớ. - Nhìn thấy “bức tranh tổng thể mà lại chi tiết”. - Dễ dạy, dễ học. - Kích thích hứng thú học tập và sáng tạo của học sinh. - Giúp mở rộng ý tưởng, đào sâu kiến thức. - Giúp hệ thống hóa kiến thức, ôn tập kiến thức. - Giúp ghi nhớ nhanh , nhớ sâu, nhớ lâu kiến thức. Điểm mạnh nhất của BĐTD là giúp phát triển ý tưởng và không bỏ sót ý tưởng, từ đó phát triển óc tưởng tượng và khả năng sáng tạo. Với những ưu điểm trên, có thể vận dụng BĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập, hệ thống hóa 4
- kiến thức sau mỗi chương, mỗi học kì, cũng như giúp lập kế hoạch học tập, công tác sao cho hiệu quả nhất mà lại mất ít thời gian. Từ cơ sở thực tiễn và khoa học nêu trên, chúng tôi chọn tên cho giải pháp khoa học giáo dục của mình là “ Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học Hoá học lớp 10 ’’ 2. Nội dung 2.1. Hướng dẫn chung 2.1.1. Các bước thực hiện một bản đồ tư duy - Bước 1 : Vẽ chủ đề ở trung tâm. Bước đầu tiên trong việc tạo ra một BĐTD là vẽ chủ đề ở trung tâm trên một mảnh giấy (đặt nằm ngang). Quy tắc vẽ chủ đề : + Vẽ chủ đề ở trung tâm để từ đó phát triển ra các ý khác. + Có thể tự do sử dụng tất cả màu sắc mà bạn thích. + Không nên đóng khung hoặc che chắn mất hình vẽ chủ đề vì chủ đề cần được làm nổi bật dễ nhớ. + Có thể bổ sung từ ngữ vào hình vẽ chủ đề nếu chủ đề không rõ ràng. - Bước 2 : Vẽ thêm các tiêu đề phụ. Bước tiếp theo là vẽ thêm các tiêu đề phụ vào chủ đề trung tâm. Quy tắc vẽ tiêu đề phụ : + Tiêu đề phụ nên được viết bằng CHỮ IN HOA nằm trên các nhánh dày để làm nổi bật. + Tiêu đề phụ nên được vẽ gắn liền với trung tâm. + Tiêu đề phụ nên được vẽ theo hướng chéo góc để nhiều nhánh phụ khác có thể được vẽ tỏa ra một cách dễ dàng. - Bước 3 : Trong từng tiêu đề phụ, vẽ thêm các ý chính và các chi tiết hỗ trợ. Quy tắc vẽ ý chính và chi tiết hỗ trợ : + Chỉ nên tận dụng các từ khóa và hình ảnh. 5
- + Bất cứ lúc nào có thể, bạn hãy dùng những biểu tượng, cách viết tắt để tiết kiệm không gian vẽ và thời gian. Mọi người ai cũng có cách viết tắt riêng cho những từ thông dụng. Bạn hãy phát huy và sáng tạo thêm nhiều cách viết tắt cho riêng bạn. Mỗi từ khóa - hình ảnh nên được vẽ trên một đoạn gấp khúc riêng trên nhánh. Trên mỗi khúc nên chỉ có tối đa một từ khóa. Việc này giúp cho nhiều từ khóa mới và những ý khác được nối thêm vào các từ khóa sẵn có một cách dễ dàng (bằng cách vẽ nối ra từ một khúc). Tất cả các nhánh của một ý nên tỏa ra từ một điểm. Tất cả các nhánh tỏa ra từ một điểm (thuộc cùng một ý) nên có cùng một màu. Chúng ta thay đổi màu sắc khi đi từ một ý chính ra đến các ý phụ cụ thể hơn. Ví dụ : - Bước 4 : Ở bước cuối cùng này, hãy để trí tưởng tượng của bạn bay bổng. Bạn có thể thêm nhiều hình ảnh nhằm giúp các ý quan trọng thêm nổi bật, cũng như giúp lưu chúng vào trí nhớ của bạn tốt hơn. 2.1.2. Quá trình hướng dẫn HS xây dựng bản đồ tư duy. - Bước 1: Trước hết GV phải cho HS làm quen với BĐTD. Bởi vì thực tế cho thấy rằng rất nhiều HS cũng chưa biết BĐTD là cái gì, cấu trúc ra sao và vẽ như thế nào, vì thế GV trước hết cần phải cho HS làm quen và giới thiệu về BĐTD cho HS. Giáo viên nên giới thiệu cho HS về nguồn gốc, ý nghĩa hay tác dụng của việc sử dụng BĐTD trong học tập môn Hoá học Giáo viên có thể đưa ra một số BĐTD sau đó yêu cầu HS diễn giải, thuyết trình về nội dung của BĐTD theo cách hiểu riêng của mình. Với việc thực hiện bước này sẽ giúp HS bước đầu làm quen và hiểu về BĐTD. 6
- Ví dụ : Trong bài ôn tập đầu năm GV sẽ đưa ra hệ thống hoá các khái niệm về chất yêu cầu HS diễn giải sơ đồ - Bước 2: Sau khi đã làm quen với BĐTD giáo viên có thể giao cho HS hoặc cùng HS xây dưng lên một BĐTD ngay tại lớp với các bài ôn tập, hệ thống hóa kiến thức Ví dụ : Trong bài ôn tập đầu năm GV cùng HS phân loại các hợp chất vô cơ đã học trong chương trình lớp 9 - Bước 3 : Sau khi HS vẽ xong bản đồ tư duy, giáo viên có thể để HS tự trình bày ý tưởng về bản đồ tư duy mà mình vừa thực hiện được. 7
- 2.1.3. Những điều cần tránh khi ghi chép trên bản đồ tư duy - Ghi lại nguyên cả đoạn văn dài dòng. - Ghi chép quá nhiều ý vụn vặt không cần thiết. - Dành quá nhiều thời gian để ghi chép. 2.2. Sử dụng bản đồ tư duy trong việc chuẩn bị bài của học sinh và dạy bài mới của giáo viên. 2.2.1. Nhiệm vụ của học sinh chuẩn bị bài ở nhà. Giáo viên định hướng cho HS chuẩn bị bài ở nhà bằng cách lập một BĐTD về bài học, những đề mục sẽ có trong bài học mới. Điều này sẽ bắt buộc HS phải đọc bài và nghiên cứu bài trước, giúp HS nắm được một cách khái quát những điều sẽ có trong bài học mới Ví dụ : Trước khi học bài “ Cấu tạo vỏ nguyên tử “ GV yêu cầu HS về vẽ một BĐTD về các đề mục có trong bài. 2.2.2. Sử dụng bản đồ tư duy khi vào tiết học mới. Giáo viên giới thiệu bài mới và vẽ chủ đề chính của bài học lên bảng bằng một hình vẽ bất kì trên bảng của lớp, cho HS ngồi theo nhóm thảo luận BĐTD của mỗi HS đã chuẩn bị trước ở nhà đối với BĐTD của các bạn trong nhóm. Giáo viên đặt câu hỏi chủ đề nội dung chính hôm nay có mấy nhánh lớn cấp số 1 (các đề mục có trong bài) và gọi HS lên bảng vẽ nối tiếp chủ đề, chia thành các nhánh lớn trên bảng có ghi chú thích tên từng nhánh lớn. 8
- Sau khi HS vẽ xong các nhánh lớn cấp số 1, GV đặt câu hỏi tiếp ở nhánh thứ nhất có mấy nhánh nhỏ cấp số 2 HS sẽ hoàn thành nội dung BĐTD của bài học mới ngay tại lớp. Học sinh tự chỉnh sửa điều chỉnh bổ sung những phần còn thiếu vào BĐTD của từng cá nhân. Ví dụ 1 : Khi học bài “ Cấu tạo vỏ nguyên tử “ ( tiết 7 theo phân phối chương trình ), sau khi HS vẽ xong nhánh cấp 1, GV sẽ sử dụng hệ thống câu hỏi để triển khai kiến thức và hoàn thiện BĐTD của bài học : + Với mẫu hành tinh nguyên tử, các nhà khoa học Rơ-dơ-pho, Bo, Zom- mơ-phen đã xác định các electron chuyển động quanh hạt nhân như thế nào? + Ngày nay, dưới ánh sáng của khoa học hiện đại sự chuyển động của các electron quanh hạt nhân đã được nhìn nhận như thế nào? + Vỏ nguyên tử được chia thành các đơn vị tổ chức nào ? Sơ đồ minh hoạ Ví dụ 2 : Khi học bài “ Sự biến đổi tuần hoàn tính chất của các nguyên tố hoá học. Định luật tuần hoàn “ sau khi GV làm rõ một số khái niệm về tính kim loại - tính phi kim sẽ yêu cầu HS chia nhóm vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi gợi ý cho các em để các em có thể vẽ tiếp các nhánh 9