Sáng kiến kinh nghiệm Số biện pháp áp dụng vào giảng dạy giải bài toán có lời văn lớp Một
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Số biện pháp áp dụng vào giảng dạy giải bài toán có lời văn lớp Một", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_so_bien_phap_ap_dung_vao_giang_day_gia.doc
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Số biện pháp áp dụng vào giảng dạy giải bài toán có lời văn lớp Một
- Nâng cao hiệu quả giúp học sinh lớp 1 “ Giải toán có lời văn” đạt hiệu quả cao. Tác giả Nguyễn Thị Nhàn GV trường TH Sơn Mai I.ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lý luận. Trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước giáo dục luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu” đây là động lực thúc đẩy góp phần làm cho nền kinh tế đất nước phát triển không ngừng về mọi mặt. Chính vì lẽ đó, ngành giáo dục luôn được đổi mới môn Toán ở tiểu học nói chung và môn Toán lớp 1 nói riêng để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Vì học sinh lớp Một ở lứa tuổi còn non nớt, khả năng chú ý có chủ định còn yếu, khả năng kiểm soát điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này tính chú ý không chủ định chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định, sự tập trung chú ý của trẻ còn non và thiếu bền vững, dễ bị phân tán bởi những âm thanh, sự kiện khác ngoài nội dung học tập. Một mặt tri giác của trẻ còn mang tính đại thể, không ổn định ít đi vào chi tiết, tri giác thường gắn với hình ảnh trực quan nhưng trí tưởng tượng của các em vẫn còn đơn giản, dễ thay đổi. Đặc biệt ở lứa tuổi này tư duy của trẻ phát triển từ trực quan cụ thể đến tư duy trừu tượng hoá nên các em thường quan tâm chú ý đến các môn học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, nhiều tranh ảnh với nhiều màu sắc hấp dẫn. Các em rất ham chơi, thích làm việc theo ý mình, nhưng thích bắt chước người khác đặc biệt là giáo viên, trẻ coi thầy giáo cô giáo là thần tượng thích làm theo thầy cô giáo. Như vậy trong quá trình giảng dạy chúng ta cần giúp học sinh phát triển tư duy và trí tưởng tượng bằng cách biến các kiến thức khô khan thành những hình ảnh có cảm xúc, bằng những câu hỏi mang tính gợi mở gần gũi với các em, thu hút các em tích cực hoạt động trong giờ học tiếp thu bài tốt giúp các em phát triển toàn diện. Đây cũng là điều tôi luôn băn khoăn suy nghĩ, tìm tòi, trau dồi học hỏi và sàng lọc lựa chọn những phương pháp, những hình thức dạy học phù hợp, nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy. 2.Cơ sở thực tiễn: Ở bậc Tiểu học lớp Một là lớp hết sức quan trọng. Nó là nền tảng vững chắc trang bị cho các em những kiến thức, kỹ năng cần thiết giúp các em tiếp tục học 1
- Nâng cao hiệu quả giúp học sinh lớp 1 “ Giải toán có lời văn” đạt hiệu quả cao. các lớp kế tiếp và là cầu nối tiếp tục học bậc trung học cơ sở. Bước đầu hình thành cho các em kĩ năng tự phục vụ mọi họat động trong cuộc sống hàng ngày. Trong các môn học ở tiểu học, môn Toán đóng vai trò quan trọng nó cung cấp những kiến thức cơ bản về số, những phép tính đại lượng và khái niệm cơ bản về hình học, bên cạnh đó môn Toán còn góp phần vào phát triển tư duy, khả năng suy luận, phát triển ngôn ngữ, trau dồi trí nhớ, kích thích cho các em óc tò mò ham tìm hiểu khám phá và hình thành nhân cách cho các em giúp các em phát triển toàn diện. Thực tế giảng dạy nhiều năm ở tiểu học tôi thấy kỹ năng tính nhẩm, làm các phép tính với số tự nhiên như làm tính cộng, trừ số có nhiều chữ số và phép chia đối với số có 2 hoăc 3 chữ số tốt Nhưng dạng toán giải bài toán có lời văn các em ngại làm, làm rất chậm, làm đại cho xong, đặt lời giải sai, viết phép tính sáo trộn, viết đơn vị đi kèm sai, nhầm lẫn từ dạng này sang dạng kia. Trình bày bài làm chưa khoa học, lo gíc theo trình tự dẫn đến kết quả học tập chưa cao. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng nói trên là do ngay từ lớp Một các em chưa hình thành được kĩ năng tìm hiểu đề toán và cách giải loại toán này. Vì ở lứa tuổi học sinh lớp Một các em rất hồn nhiên ngây thơ, ham chơi, chưa biết chữ, bởi vậy vốn kiến thức ngôn ngữ, nói, viết còn hạn chế. Chính vì thế nên đôi khi các em ghi được phép tính nhưng không nêu được câu lời giải. Một mặt các em chưa quen nề nếp học tập, chưa biết xác định đúng về nhiệm vụ và tầm quan trọng của việc học tập, chưa có hứng thú học tập cao dẫn đến chưa xác định được các dạng toán giải có liên quan đến lời văn. Như vậy làm thế nào để giúp các em tiếp thu bài tại lớp, nắm kiến thức môn Toán một cách vững chắc, có hệ thống, có kỹ năng tính toán và giải toán có lời văn nhanh và chính xác đạt hiệu quả cao, để áp dụng vào thực tiễn trong cuộc sống hằng ngày. Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục phù hợp với thời kì phát triển của đất nước. Chính vì những lí do trên tôi chọn sáng kiến này để góp một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 giải toán ngày càng tốt hơn. 3. Mục đích nghiên cứu của SKKN: Đề ra một số biện pháp áp dụng vào giảng dạy giải bài toán có lời văn lớp Một, tạo hứng thú trong giờ học toán, nâng cao chất lượng giảng dạy. 2
- Nâng cao hiệu quả giúp học sinh lớp 1 “ Giải toán có lời văn” đạt hiệu quả cao. 4. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu các phương pháp trong giảng dạy giúp học sinh lớp Một giải tốt bài toán có lời văn. 5. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn giảng dạy môn toán lớp Một thông qua việc học sinh giải bài toán có lời văn trong năm học 2014 – 2015 tại đơn vị tôi công tác. 6. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp điều tra. - Phương pháp trắc nghiệm. - Phương pháp trực quan. - Phương pháp đàm thoại. - Phương pháp luyện tập. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 1. Thực trạng Trong năm học 2014 – 2015 tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 1A, gồm 17 em (1em khuyết tật). Trong có 10 em nam và 7 em nữ. Bản thân tôi rất lo lắng vì một số em nhút nhát, đọc bài ngọng, tiếp thu bài chậm mau quên do đó chưa nhận biết được các chữ cái nên sợ đi học mấy tuần đầu đến trường còn khóc. Đa số các em rất hồn nhiên, ham chơi chưa có nề nếp và tinh thần trách nhiệm trong học tập, hay nói chuyện, thích làm việc riêng trong giờ học, thường xuyên xin ra ngoài, hay quên sách, vở, đồ dùng học tập và rất lười học bài ở nhà . Phần nhiều cha mẹ các em làm nông, làm vườn, làm trang trại, kinh tế gia đình còn gặp nhiều khó khăn. Nên phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học của các em. Ngoài ra khi giải toán HS rÊt lóng tóng khi nªu c©u lêi gi¶i, thËm chÝ nªu sai c©u lêi gi¶i, viÕt sai phÐp tÝnh, viÕt sai ®¸p sè. Nh÷ng tiÕt ®Çu tiªn cña gi¶i to¸n cã lêi v¨n trong líp chØ cã kho¶ng 15% sè HS biÕt nªu lêi gi¶i, viÕt ®óng phép tÝnh vµ ®¸p sè. Sè cßn l¹i lµ rÊt m¬ hå, c¸c em chØ nªu theo qu¸n tÝnh hoÆc nªu miÖng th× ®îc nhng khi viÕt c¸c em l¹i lµm sai, mét sè em lµm ®óng nhng khi c« hái kh«ng biÕt ®Ó tr¶ lêi. Do đó khi truyền thụ kiến thức cho các em giáo viên gặp rất nhiều khó khăn. Tôi đã tiến hành khảo sát để đề ra một số biện pháp rèn kĩ năng 3
- Nâng cao hiệu quả giúp học sinh lớp 1 “ Giải toán có lời văn” đạt hiệu quả cao. giải toán cho các em. Học sinh giải bài toán sau: Lúc đầu tổ em có 5 bạn, sau đó có thêm 3 bạn nữa.Hỏi tổ em có tất cả mấy bạn? Sau khi tiến hành kiểm tra trước thực nghiệm, tôi thu được kết quả sau: TS Lớp HỌC SINH Viết đúng câu lời Viết đúng phép Viết đúng đáp Giải đúng cả 3 giải tính số bước 17 1A 1= 5,88% 9 = 52,94% 4 = 23,52% 3= 17,64% 2. Các biện pháp rèn kĩ năng “Giải toán có lời văn” a) Biện pháp thứ nhất: Đọc và tìm hiểu đề toán Muốn học sinh hiểu và có thể giải được bài toán thì điều quan trọng đầu tiên là phải giúp các em đọc và hiểu được nội dung bài toán. Giáo viên cần tổ chức cho các em đọc kỹ đề toán, hiểu rõ một số từ khoá quan trọng như " thêm, và , tất cả, " hoặc "bớt, bay đi, ăn mất, còn lại , " (có thể kết hợp quan sát tranh vẽ để hỗ trợ). Để học sinh dễ hiểu đề bài, giáo viên cần gạch chân các từ ngữ chính trong đề bài. Một số giáo viên còn gạch chân quá nhiều các từ ngữ, hoặc gạch chân các từ chưa sát với nội dung cần tóm tắt. Khi gạch chân nên dùng phấn màu khác cho dễ nhìn. Trong giai đoạn đầu, giáo viên nên giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách đàm thoại " Bài toán cho gì? Hỏi gì?" và dựa vào câu trả lời của học sinh để viết tóm tắt, sau đó cho học sinh dựa vào tóm tắt để nêu lại đề toán. Đây là cách tốt nhất để giúp học sinh ngầm phân tích đề toán. Nếu học sinh gặp khó khăn trong khi đọc đề toán thì giáo viên nên cho các em nhìn tranh và trả lời câu hỏi. Ví dụ : Bài 3 trang 118, giáo viên có thể hỏi: - Em thấy dưới ao có mấy con vịt? (Dưới ao có 5 con vịt) - Trên bờ có mấy con vịt? ( Trên bờ có 4 con vịt) - Đàn vịt có tất cả mấy con? (Có tất cả 9 con) Trong trường hợp không có tranh ở sách giáo khoa thì giáo viên có thể gắn mẫu vật (gà, vịt, ) lên bảng từ để thay cho tranh; hoặc dùng tóm tắt bằng lời hoặc sơ đồ đoạn thẳng để hỗ trợ học sinh đọc đề toán. 4
- Nâng cao hiệu quả giúp học sinh lớp 1 “ Giải toán có lời văn” đạt hiệu quả cao. Cần lưu ý dạy giải toán là một quá trình không nên vội vàng yêu cầu các em phải đọc thông thạo đề toán, viết được các câu lời giải, phép tính và đáp số để có một bài chuẩn mực ngay từ tuần 23, 24. Chúng ta cần bình tĩnh rèn cho học sinh từng bước, miễn sao đến cuối năm (tuần 33, 34, 35) trẻ đọc và giải được bài toán là đạt yêu cầu. b) Biện pháp thứ 2: Tìm đường lối giải bài toán. Sau khi giúp học sinh tìm hiểu đề toán để xác định rõ cái đã cho và cái phải tìm. Chẳng hạn:Nhà An có 5 con gà,mẹ mua thêm 4 con gà.Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà? - Bài toán cho gì? (Nhà An có 5 con gà) - Còn cho gì nữa? (Mẹ mua thêm 4 con gà) - Bài toán hỏi gì? (Nhà An có tất cả mấy con gà?) Giáo viên nêu tiếp: "Muốn biết nhà An có tất cả mấy con gà em làm tính gì? (tính cộng) Mấy cộng mấy? (5 + 4) ; 5 + 4 bằng mấy? (5 + 4 = 9); hoặc: "Muốn biết nhà An có tất cả mấy con gà em tính thế nào? (5 + 4 = 9); hoặc: "Nhà An có tất cả mấy con gà ?" (9) Em tính thế nào để được 9 ? (5 + 4 = 9). Tới đây giáo viên gợi ý để học sinh nêu tiếp "9 này là 9 con gà", nên ta viết "con gà" vào trong dấu ngoặc đơn: 5 + 4 = 9 (con gà). Sau khi học sinh đã xác định được phép tính, nhiều khi việc hướng dẫn học sinh đặt câu lời giải còn khó hơn việc chọn phép tính và tính ra đáp số. Với học sinh lớp 1, lần đầu tiên được làm quen với cách giải loại toán này nên các em rất lúng túng.Có thể dùng một trong các cách sau: Cách 1:Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu (Hỏi) và cuối (mấy con gà ?)để có câu lời giải:"Nhà An có tất cả:" hoặc thêm từ "là" để có câu lời giải:Nhà An có tất cả là: Cách 2: Đưa từ "con gà" ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ "Hỏi" và thêm từ Số (ở đầu câu), là ở cuối câu để có: "Số con gà nhà An có tất cả là:" Cách 3: Dựa vào dòng cuối cùng của tóm tắt, coi đó là "từ khoá" của câu lời giải rồi thêm thắt chút ít. 5