Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả viết văn miêu tả cho học sinh Lớp 5
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả viết văn miêu tả cho học sinh Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_hieu_qua_viet_van_mieu_ta_cho.doc
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả viết văn miêu tả cho học sinh Lớp 5
- Sáng kiến kinh nghiệm – Lã Thị Nguyên Đề tài “Nâng cao hiệu quả viết văn miêu tả cho học sinh lớp 5” A. Phần mở đầu I. cơ sở lý luận : Trong chương trình Tiểu học mới, môn Tiếng Việt được chia thành các phân môn, mỗi môn có nhiệm vụ rèn cho học sinh một số kĩ năng nhất định. Phân môn Tập làm văn là phân môn mang tính tổng hợp cao nhất. Phân môn Tập làm văn rèn cho học sinh cả bốn kĩ năng, trong đó chú trọng vào các kĩ năng nghe, nói, viết. Đối với phân môn này, học sinh phải được hình thành và rèn luyện năng lực trình bày văn bản (nói và viết) ở nhiều thể loại khác nhau. Qua thực tế giảng dạy , tôi nhận thấy phân môn Tập làm văn là phân môn khó trong các phân môn của môn Tiếng Việt. Để thực hiện được mục tiêu của phân môn Tập làm văn là xây dựng các văn bản (nói và viết), học sinh cần huy động tất cả các kiến thức tiếng Việt tiếp thu được qua việc học Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện. Với học sinh lớp Năm, việc rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh là cần thiết. Học tốt văn miêu tả sẽ là điều kiện thuận lợi để học sinh học tốt các môn học khác ở Tiểu học và học lên lớp trên. Đối với học sinh dân tộc thiểu số, việc giúp học sinh học làm được một bài văn miêu tả sẽ góp phần nâng cao năng lực cảm thụ văn học cho các em, giúp các em khám phá được cái đẹp qua việc xây dựng văn bản. Nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường nói chung, dạy học sinh lớp Năm học tốt văn miêu tả nói riêng, tôi đã chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả viết văn miêu tả cho học sinh lớp 5” II. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài, tôi không có nhiều tham vọng mà chỉ nhằm mục đích góp một phần công sức của mình vào công tác giáo dục của nhà trường. Với việc nghiên cứu đề tài, tôi mong muốn sẽ có được bài học kinh nghiệm để có thể áp dụng vào thực tiễn giảng dạy môn Tập làm văn nói riêng, ngành giáo dục nói chung. Điều này càng có ý nghĩa nếu đề tài thành công sẽ đồng thời là chất lượng học tập của các em học sinh dân tộc thiểu số được nâng lên. Chỉ tiêu: Cuối năm học, 95% học sinh có thể làm được bài văn miêu tả theo yêu cầu. Trên cơ sở các kiến thức, kĩ năng về văn miêu tả đã được học, học sinh có thể vận dụng học tiếp lên lớp trên. III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu 1
- Sáng kiến kinh nghiệm – Lã Thị Nguyên 1. Phạm vi nghiên cứu Nhằm đi sâu vào một vấn đề và chỉ dừng ở mức độ sáng kiến kinh nghiệm nên tôi chỉ giới hạn đề tài trong phạm vi nghiên cứu việc dạy học kiểu bài miêu tả cho học sinh lớp Năm. Với phạm vi nghiên cứu hẹp như vậy, tôi hi vọng sẽ thu được nhiều kết quả khả quan, góp phần thực hiện nhiệm vụ giáo dục của một nhà giáo trong giai đoạn mới. 2. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 5D và học sinh khối 5 trường Tiểu học Thị Trán Sóc Sơn 3. Nhiệm vụ nghiên cứu: + Điều tra phân loại đối tượng học sinh lớp Năm của nhà trường. Từ đó mạnh dạn áp dụng những biện pháp nhằm giúp học sinh yêu thích và học tốt kiểu bài miêu tả trong chương trình Tiếng Việt lớp 5. + Trên cơ sở các giải pháp đã áp dụng, tôi sẽ rút ra những bài học kinh nghiệm trong dạy học kiểu bài miêu tả cho học sinh lớp Năm. + Phát triển sáng kiến kinh nghiệm thành đề tài nghiên cứu. Tiếp tục áp dụng những biện pháp nhằm giúp học sinh lớp Năm, nhất là học sinh dân tộc thiểu số yêu thích và học tốt kiểu bài miêu tả. Phần 2 : Giải quyết vấn đề I . Một số biện pháp đã áp dụng nhằm giúp học sinh học tốt kiểu bài miêu tả trong phân môn Tập làm văn lớp 5. 1. Điều tra phân loại học sinh Tôi điều tra phân loại học sinh, nắm chắc từng đối tượng học sinh: học sinh năng khiếu, trung bình, học sinh yếu. Nắm chắc được đối tượng học sinh, giáo viên sẽ đề ra được kế hoạch dạy học phù hợp, có những biện pháp dạy học giúp vun xới, phát triển năng lực học văn của học sinh năng khiếu. Đồng thời, giáo viên cũng có biện pháp phù hợp giúp học sinh yếu, 2. Rèn cho học sinh kĩ năng quan sát. Quan sát theo trình tự từ xa đến gần, từ trong ra ngoài, từ tổng quát đến cụ thể Ghi chép những điều đã quan sát được. Tổ chức cho học sinh quan sát cụ thể đối tượng tả. Có thể hướng dẫn quan sát theo nhiều hình thức: quan sát trực tiếp đối tượng (sân trường), quan sát ở nhà, ghi chép (ngôi nhà em đang ở), quan sát qua phim ảnh (cảnh biển buổi sáng) 3. Chọn đề tài gần gũi, quen thuộc đối với học sinh 2
- Sáng kiến kinh nghiệm – Lã Thị Nguyên - Học sinh tiểu học vùng thuận lợi có thể viết được những bài văn miêu tả chỉ bằng quan sát qua tranh ảnh, phim Nhưng đối với học sinh DTTS của trường, những đề tài tương đối xa lạ là điều cần tránh. Các em đến trường học tập bằng ngôn ngữ thứ hai với một vốn tiếng Việt tương đối hạn chế mà giáo viên lại yêu cầu học sinh hình dung, đặt câu, viết một bài văn miêu tả một đối tượng các em chưa nhìn thấy bao giờ thì đúng là điều quá sức các em. Ví dụ: Đề bài trong sách giáo khoa tiếng Việt lớp 5 tập 2 trang 134: Tả một khu vui chơi mà em thích. Với những đề bài như thế này, tôi mạnh dạn thay bằng đề bài khác. - Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là không cho học sinh có cơ hội phát huy trí tưởng tượng của mình. Trong một lớp học luôn có nhiều đối tượng học sinh (Như đã nói ở phần đặc điểm tình hình học sinh). Khi ra đề cho học sinh, người thầy luôn tạo cho các em quyền chọn lựa bằng cách ra nhiều đề (từ 2 đến 4 đề bài) để các đối tượng học sinh trong lớp đều có thể tự do chọn đề bài, tránh sự áp đặt. Ra đề cho học sinh làm bài kiểm tra viết, tôi chọn ba đề sau: Tả một người thân trong gia đình em. Tả một người bạn cùng lớp hoặc người bạn ở gần nhà em. Tả một ca sĩ đang biểu diễn mà em thích. Với ba đề bài trên, các em học sinh có thể chọn đối tượng tả là một nhân vật quen thuộc, gần gũi. Nhưng với một vài học sinh khác, các em cũng có thể chọn tả ca sĩ đang biểu diễn với rất nhiều chi tiết sống động mà các em đã có dịp quan sát qua các đêm xem biểu diễn ca nhạc. 4. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý. Đây là một việc làm khó. Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh lập dàn ý trước khi làm thành một bài văn hoàn chỉnh. Có lập được dàn bài thì mới có thể tìm ý, sắp xếp ý, viết thành một bài văn mạch lạc, bố cục rõ ràng, ý văn trong sáng. 5. Sử dụng phương pháp luyện tập theo mẫu: Gợi ý cho học sinh khá giỏi làm bài, trình bày câu văn, đoạn văn. Cả lớp theo dõi, nhận xét, giáo viên chốt lại và cho học sinh phát biểu. Nhưng điểm mấu chốt là giáo viên phải chú ý từng đối tượng học sinh, sửa cho từng em, động viên sự sáng tạo của các em, dù là rất nhỏ. Dựa trên một đề văn cụ thể, giáo viên hướng dẫn học sinh vận dụng các kiến thức kĩ năng đã học về đề văn đó để làm nhiều bài khác nhau, nhất là với đối tượng học sinh trung bình, yếu. Ví dụ: + Học bài văn tả người thân, học sinh tả ông nội. Khi gặp một đề văn yêu cầu tả một người hàng xóm, học sinh có thể sử dụng thứ tự miêu tả, bố cục, các biện pháp nghệ thuật đã sử dụng ở đề bài trước để thực hiện làm đề bài thứ hai. Tất nhiên, giáo viên phải giúp học sinh tránh sự sao chép nguyên văn. 6. Chấm bài thường xuyên. Đồng thời với việc chấm bài là phải hướng dẫn học sinh sửa bài. Phải giúp các em phát hiện ra những điểm hay, những điểm chưa đạt trong bài văn của mình. Trên cơ sở đó, học sinh phải sửa lại bài làm của mình cho đúng hơn, hay hơn. 3
- Sáng kiến kinh nghiệm – Lã Thị Nguyên Giáo viên cần tránh việc chê bai học sinh nhưng cũng không được lạm dụng lời khen, tạo sự thờ ơ của học sinh đối với lời khen do được khen quá nhiều, khen không đúng lúc. Kiểu như mỗi lần học sinh nói xong, nhiều lúc chỉ là nhận xét bạn đã viết hoa đầu câu chưa, giáo viên đều nhận xét “Em giỏi lắm”. 7. Làm giàu vốn từ cho học sinh Nếu học kiểu bài kể chuyện học sinh chỉ tái hiện lại nội dung câu chuyện đã nghe, đã đọc là có thể đạt được yêu cầu cơ bản của đề bài thì văn miêu tả đòi hỏi phải có một vốn từ phong phú mới có thể làm bài. Thế giới quanh ta rất phong phú đa dạng và không ngừng biến đổi. Người viết văn không thể “vẽ” được một cảnh một người nếu bản thân người ấy thiếu vốn từ, vốn sống. Làm giàu vốn từ cho học sinh có nghĩa là giúp cho các em nắm một số từ gợi tả để có thể dùng trong miêu tả. Ví dụ: Giáo viên yêu cầu học sinh tìm các từ ngữ gợi tả mái tóc (vàng hoe, đen nhánh, bạc phơ, hoe vàng, cháy nắng, óng ả, rễ tre, xoăn tít ), khuôn mặt (bầu bĩnh, vuông chữ điền, trái xoan, khắc khổ ), nước da (trắng trẻo, trắng hồng, ngăm ngăm, bánh mật, đen sạm ), dáng người (nhỏ nhắn, gầy gò, đẫy đà, to khỏe, cao cao ), nụ cười (khành khạch, mủm mỉm, ha hả, toe toét ). Cho học sinh tìm từ bằng các hình thức như: quan sát thực tế (quan sát bạn), quan sát tranh ảnh, xem phim, đọc sách truyện, nhất là qua các phân môn của Tiếng Việt hoặc các môn học khác. Ví dụ: Dạy Luyện từ và câu bài từ đồng nghĩa, giáo viên gợi ý cho học sinh tìm các từ gợi tả đồng nghĩa như bao la, mênh mông, bát ngát. Qua hình thức trò chơi như: tìm từ láy âm gợi tả hình ảnh Học sinh chia làm nhóm 4, từng nhóm lần lượt nêu một từ láy âm gợi tả hình ảnh rồi chỉ nhóm khác: Mênh mông - nho nhỏ - đủng đỉnh – lung linh – mượt mà - đẫy đà - cứng cáp – thướt tha - mơn mởn – cuồn cuộn – nhanh nhẹn – nũng nịu Trên cơ sở những từ láy tìm được, giáo viên tiếp tục cho học sinh xác định những từ láy chỉ dùng để tả người: nho nhỏ - đủng đỉnh – mượt mà - đẫy đà - cứng cáp – thướt tha - nhanh nhẹn - nũng nịu 8. Giúp học sinh luyện viết câu - Trước hết, mọi học sinh phải viết được câu văn đúng ngữ pháp. Đây là yêu cầu cơ bản vì câu là đơn vị của lời nói. Đối với học sinh giỏi, giáo viên yêu cầu học sinh đặt câu đúng ngữ pháp, giàu hình ảnh, lột tả được sắc thái riêng của đối tượng miêu tả. Còn đối với học sinh yếu, giáo viên hướng dẫn học sinh đặt được câu đúng, thể hiện được ý cần nói. Ví dụ: Với học sinh yếu: Tóc bạn Mi hơi vàng. Với học sinh trung bình: Loan có mái tóc dài, đen, phủ kín vai. Bạn hay kẹp tóc bằng cái kẹp có hình con bướm màu xanh. Với học sinh khá giỏi: Bạn A có mái tóc xoăn tự nhiên của người miền núi không lẫn với bất cứ bạn nào trong lớp được. Bạn hay để đầu trần đi học, đi chăn bò nên mái tóc của bạn không đen như tóc em mà hoe vàng và khen khét mùi nắng. 4