Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn học

doc 16 trang sangkien 01/09/2022 3880
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_ki_nang_song_cho.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn học

  1. MỤC LỤC STT Nội dung Trang 01 Phần I. Lý do chọn đề tài. 02 02 Phần II. Giải quyết vấn đề. 03 03 2.1. Những vấn đề lý luận chung. 03 04 2.2. Thực trạng của vấn đề. 05 05 Thực trạng của việc rèn kĩ năng sống hiện nay. 05 06 Những thuận lợi, khó khăn khi rèn kĩ năng sống cho học sinh. 06 07 2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề. 07 08 Gần gũi và tạo mối quan hệ với học sinh. 08 09 Rèn kĩ năng sống hiệu quả qua việc tích hợp vào các môn học 08 và tài liệu giáo dục kĩ năng sống: Thực hành kĩ năng sống 4 10 Rèn kĩ năng sống qua các tiết hoạt động tập thể, hoạt động giáo 10 dục ngoài giờ lên lớp, vui chơi. 11 Động viên, khen thưởng. 11 12 Tuyên truyền các bậc phụ huynh học sinh thực hiện các kĩ năng 11 sống cơ bản. 13 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. 12 14 Phần III. Kết luận. 14 15 Những vấn đề quan trọng nhất được đề cập đến của sáng kiến. 14 16 Hiệu quả thiết thực của sáng kiến nếu được triển khai, áp dụng 14 trong đơn vị, ngành. 17 Kiến nghị. 14 18 Các tài liệu tham khảo 16 1
  2. Phần I: Lí do chọn đề tài Từ năm học 2010-2011, Bộ GD&ĐT đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống vào bậc tiểu học. Đây là một chủ trương cần thiết và đúng đắn. Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện về đạo đức, trí thức, sức khỏe, thẩm mỹ, nghề nghiệp và hình thành nhân cách, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là một nội dung được đông đảo phụ huynh và dư luận quan tâm, bởi đây là một chương trình giáo dục hết sức cần thiết đối với học sinh và phù hợp với mục tiêu giáo dục hiện nay, nhằm đào tạo con người với đầy đủ các mặt “đức, trí, thể, mỹ” để đáp ứng yêu cầu của xã hội. Ở bậc tiểu học là bậc học tạo nền tảng cho học sinh phát triển, vì vậy ngoài việc trang bị cho học sinh vốn kiến thức cơ bản trong học tập, lao động còn phải giáo dục học sinh có kỹ năng sống, kỹ năng làm người để học sinh có thêm kinh nghiệm thích ứng với môi trường, xã hội mới, thời đại mới. Năm học 2014 – 2015 là năm học tiếp tục thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là một trong những nội dung của phong trào. Chính vì vậy nên các nhà trường cần chú trọng hơn đến nội dung “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh”. Nhằm giúp học sinh tự giải quyết được một số vấn đề thiết thực trong cuộc sống hằng ngày như: Tự chăm sóc sức khỏe, tự bảo vệ bản thân, bảo vệ môi trường và phòng chống các tệ nạn xã hội, để các em chủ động, tự tin không phụ thuộc hoàn toàn vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình. Trong thực tế hiện nay, việc rèn kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường đã được chú ý đến. Song học sinh vẫn còn chưa linh hoạt khi xử lý tình huống trong giao tiếp cũng như trong tất cả các hoạt động khác. Với việc nghiên cứu sáng kiến này, tôi mong muốn góp phần nâng cao phẩm chất cho học sinh. Từ đó dần hình thành phát triển kĩ năng sống cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 4 nói riêng. Với ý nghĩa và tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng sống cho học sinh, tôi đã nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn học.” để giúp các đồng nghiệp có cái nhìn tích cực với việc rèn kĩ năng sống cho học sinh. Từ đó sẽ tổ chức, thực hiện chương trình rèn kĩ năng sống cho học sinh một cách thiết thực, hiệu quả, đáp ứng được mô hình trường Tiểu học Việt Nam mới hiện nay. Đề tài này là một số kinh nghiệm của tôi đã nghiên cứu thực hiện, áp dụng và đạt kết quả khả quan. Trong quá trình nghiên cứu để thực hiện đề tài, tôi nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban giám hiệu và sự hỗ trợ của các giáo viên khối 4 trong nhà trường nhưng không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong quý thầy, cô cùng tất cả các đồng nghiệp đóng góp ý kiến để cho đề tài được hoàn thiện hơn. 2
  3. Phần II: Giải quyết vấn đề 2.1. Những vấn đề lý luận chung: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh có thể quan niệm là việc tổ chức các hoạt động giáo dục đa dạng, phong phú nhằm kích thích học sinh tham gia một cách tích cực chủ động vào các quá trình hoạt động, qua đó hình thành hoặc thay đổi hành vi của trẻ theo hướng tích cực nhằm góp phần phát triển nhân cách toàn diện; giúp học sinh có thể sống an toàn, khỏe mạnh và tích cực, chủ động trong cuộc sống hằng ngày. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là giáo dục cho các em có cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng hoặc thay đổi ở học sinh các hành vi theo hướng tích cực phù hợp với mục tiêu phát triển toàn diện nhân cách người học trên cơ sở giúp học sinh có tri thức, giá trị, thái độ và kỹ năng phù hợp. *Kỹ năng sống là gì? Có nhiều định nghĩa và quan niệm khác nhau về kỹ năng sống. Mỗi định nghĩa được thể hiện dưới những cách thức tiếp cận khác nhau. Thông thường, kỹ năng sống được hiểu là những kỹ năng thực hành mà con người cần để có được sự an toàn, có cuộc sống khỏe mạnh với chất lượng cao. - Theo tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO), kỹ năng sống là năng lực cá nhân để họ thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày, những kỹ năng đó gắn với 4 trụ cột của giáo dục: Học để biết: gồm các kỹ năng tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định vấn đề, nhận thức được hậu quả của việc làm Học để làm: gồm kỹ năng thực hiện công việc và nhiệm vụ như kỹ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm Học để làm người: gồm các kỹ năng cá nhân như ứng phó với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin Học để chung sống: gồm các kỹ năng như giao tiếp, thương lượng, khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông - Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), kỹ năng sống là kỹ năng thiết thực mà con người cần để có cuộc sống an toàn và khỏe mạnh, đó là những kỹ năng tâm lý xã hội và giao tiếp mà mỗi cá nhân có thể có để tương tác với những người khác một cách hiệu quả hoặc ứng phó với những vấn đề hay thách thức của cuộc sống hằng ngày. Tương đồng với quan niệm của WHO, còn có quan niệm kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lý xã hội liên quan đến những tri thức, những giá trị và những thái độ, cuối cùng được thể hiện ra bằng những hành vi làm cho các cá nhân có thể thích nghi và giải quyết có hiệu quả các yêu cầu và thách thức của cuộc sống. - Theo UNICEFF, Kỹ năng sống là tập hợp rất nhiều kỹ năng tâm lý xã hội và giao tiếp cá nhân giúp cho con người đưa ra những quyết định có cơ sở, giao tiếp 3
  4. một cách có hiệu quả, phát triển các kỹ năng tự xử lý và quản lý bản thân nhằm giúp họ có một cuộc sống lành mạnh và có hiệu quả. Có thể thấy rằng kỹ năng sống bao gồm một loạt các kỹ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Về bản chất, đó là kỹ năng tự quản lý bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả Nói cách khác kỹ năng sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi con người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó trước các tình huống của cuộc sống. Kỹ năng sống hướng vào việc giúp con người thay đổi nhận thức, thái độ và giá trị trong những hành động theo xu hướng tích cực và mang tính chất xây dựng. Kỹ năng sống được hình thành thông qua một quá trình sống, rèn luyện, học tập trong gia đình, nhà trường và ngoài xã hội. Vì vậy, kỹ năng sống của mỗi người vừa có tính cá nhân, vừa có tính xã hội và chịu ảnh hưởng của gia đình, cộng đồng, dân tộc. Những nghiên cứu gần đây về sự phát triển của não trẻ cho thấy rằng khả năng giao tiếp với mọi người, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mình, cách ứng xử phù hợp với các yêu cầu, giải quyết các vấn đề cơ bản một cách tự lập có những ảnh hưởng rất quan trọng đối với kết quả học tập của trẻ tại trường. Vì thế, ngày nay trên thế giới rất nhiều trường tiểu học áp dụng phương pháp học trung tính là phương pháp học tập thông qua các giao tiếp tích cực với những người khác. * Cơ sở thực tiễn. Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang hội nhập với các nước trên thế giới từng bước phát triển vươn lên, những mặt tốt của xã hội được phát triển mạnh mẽ song những mặt trái của xã hội cũng xuất hiện nhiều, ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn tại, phát triển của mỗi tập thể, cá nhân trong đó có một bộ phận là trẻ em. Theo guồng quay của xã hội, một số gia đình bố mẹ chỉ mải lo đến việc làm kinh tế mà quên mất gia đình là chiếc nôi của trẻ, quên đi việc cần tạo một môi trường gia đình đầm ấm, hạnh phúc cho con trẻ. Không những thế còn có những gia đình cha mẹ nghiện ngập, cờ bạc, rượu chè, ảnh hưởng vô cùng lớn tới tâm hồn trẻ, tới sự phát triển nhân cách của trẻ. Một số gia đình hoàn toàn phó mặc việc giáo dục trẻ cho nhà trường. Cũng có những gia đình có điều kiện kinh tế, quá chiều chuộng con dẫn đến trẻ thiếu sự sáng tạo, luôn ỷ lại, phụ thuộc vào người lớn; mỗi khi gặp các tình huống trong thực tế lúng túng không biết xử lý thế nào, hạn chế trong việc tự bảo vệ bản thân mình hoặc có trẻ được chiều luôn làm theo ý mình chứ không làm theo ý người khác. Bên cạnh việc học các môn văn hoá nếu trẻ được chú ý giáo dục đạo đức, được rèn kĩ năng sống biết phân biệt cái tốt, cái xấu, biết từ chối cám dỗ, biết ứng xử, biết tự quyết định đúng trong một số tình huống thì chính trẻ sẽ là người tác động tốt đến gia đình, xã hội. 4
  5. Những năm gần đây, nhiều trẻ thiếu kĩ năng làm việc nhà, kĩ năng tự phục vụ, giao tiếp với ông bà, cha mẹ. Phụ huynh vì bận nhiều công việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt động cần thiết, làm cho các em rụt rè, thiếu tự tin khi giao tiếp hoặc tham gia các hoạt động bởi các em bị cuốn hút theo các trò chơi điện tử và hệ thống ảo trên Internet. Đây là những trò chơi làm cho các em xa lánh với môi trường sống thực tế và thiếu sự tương tác giữa con người với con người, kĩ năng giao tiếp xã hội của học sinh ngày càng kém. Điều này dẫn đến tình trạng học sinh trở nên ích kỉ, vô cảm không quan tâm đến cộng đồng. Câu hỏi mà chúng ta thường đặt ra cho học sinh tiểu học là ngoài những kiến thức phổ thông về Toán, Khoa học và Nhân văn, học sinh cần học điều gì để giúp các em hòa nhập với xã hội, trở thành công dân có ích cho cộng đồng. Vì thế đây cũng là nỗi lo lắng đặt ra cho giáo viên đứng lớp những suy nghĩ, băn khoăn, trăn trở. 2.2. Thực trạng của vấn đề: + Thực trạng của việc rèn kĩ năng sống hiện nay. Học tập là một nhu cầu cần thiết của con người trong mọi thời đại. Học tập không chỉ dừng lại ở các tri thức khoa học thuần túy mà còn được hiểu là mọi tri thức về thế giới trong đó có cả những mối quan hệ, cách thức ứng xử với môi trường xung quanh. Kĩ năng sống là một trong những vấn đề quan trọng đối với mỗi cá nhân trong quá trình tồn tại và phát triển. Chương trình học hiện nay đang gặp phải nhiều chỉ trích do quá nặng nề về kiến thức trong khi những tri thức vận dụng cho đời sống hàng ngày bị thiếu hụt. Hơn nữa, người học đang chịu nhiều áp lực về học tập khiến cho không còn thời gian cho các hoạt động ngoại khóa, hoạt động xã hội. Điều này dẫn đến sự “xung đột” giữa nhận thức, thái độ và hành vi với những vấn đề xảy ra trong cuộc sống. Mặc dù ở một số môn học, các hoạt động ngoại khóa, giáo dục kĩ năng sống đã được đề cập đến. Tuy nhiên, do nội dung, phương pháp, cách thức truyền tải chưa phù hợp với tâm sinh lí của đối tượng nên hiệu quả lồng ghép còn chưa cao. Qua thực tế giảng dạy ở lớp 4 trường tiểu học Lục Sơn, tôi nhận thấy kĩ năng sống của học sinh chưa cao. Chỉ một số học sinh có hành vi, thói quen, kĩ năng tốt. Còn phần lớn các em có nhận xét, đánh giá về sự việc nhưng chưa có thái độ và cách ứng xử, xưng hô chuẩn mực. Học sinh thể hiện kĩ năng còn đại khái, chưa mạnh dạn. Kĩ năng giao tiếp, ứng xử của các em vẫn còn mang tính chất khuôn mẫu, chưa linh hoạt. Qua tiến hành khảo sát ( lần 1) ở lớp 4C đầu năm học với chủ đề “ Kĩ năng của em”; kết quả như sau: Tổng số Kĩ năng tốt Có hình thành kĩ năng Kĩ năng chưa tốt học sinh SL % SL % SL % 25 4 16 7 28 14 56 5