Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy luyện viết văn miêu tả cho học sinh Lớp 5

doc 11 trang sangkien 29/08/2022 10382
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy luyện viết văn miêu tả cho học sinh Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_day_luyen_viet_van_mi.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy luyện viết văn miêu tả cho học sinh Lớp 5

  1. A. §Æt vÊn ®Ò I) phÇn më ®Çu 1) LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Tiếng Việt là bộ môn rất quan trọng trong bậc giáo dục tiểu học. Mục đích của dạy học Tiếng Việt là dạy cho trẻ biết sử dụng Tiếng Việt văn hoá để giao tiếp và tư duy, mở rộng vốn hiểu biết thông qua việc rèn luyện các kĩ năng quan sát, kĩ năng diễn đạt, bồi dưỡng cho các em tình cảm đối với quê hương, con người và thiên nhiên. Tập làm văn là phân môn có tính chất tổng hợp. Vừa vận dụng các hiểu biết và kĩ năng về Tiếng Việt từ các phân môn khác, vừa phát huy và hoàn thiện các kết quả đó.Trong đó phần văn miêu tả (tả cảnh, tả người) thể hiện rõ nhất quan điểm này. Vì vậy làm thế nào hình thành cho học sinh kĩ năng viết văn miêu tả tốt, tạo cho các em có hứng thú trong việc học thể loại văn này, đây là việc làm rất cần thiết với mỗi giáo viên trong công tác nâng cao chất lượng dạy và học. Vì lẽ đó nên tôi chọn đề tài’’MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY LUYỆN VIẾT VĂN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 5’’. 2) nhiÖm vô nghiªn cøu: 1) nghiªn cøu t©m sinh lý løa tuæi tiÓu häc. 2) Nghiªn cøu thu thËp sè liÖu . 3) Ph©n tÝch tæng hîp rót ra bµi häc. 3) §èi t­îng nghiªn cøu : 1) Häc sinh khèi líp 5 - §Æc biÖt lµ líp 5B. 2)C¸c ph­¬ng ph¸p chØ ®¹o cña Ban gi¸m hiÖu . 3) TËp thÓ gi¸o viªn tr­êng tiÓu häc §iÒn L­ 2. 4 ) ph­¬ng ph¸p nghiªn cøu : 1) Ph­¬ng ph¸p quan s¸t. 2) Ph­¬ng ph¸p pháng vÊn. 3) Ph­¬ng ph¸p ph©n tÝch tæng hîp . 4) Ph­¬ng ph¸p tr¾c nghiÖm . SKKN / Lớp 5 / ®ç thÞ tiªn / Năm học : 2009-2010 . 1
  2. II) :THỰC TRẠNG HỌC VĂN MIÊU TẢ(TẢ CẢNH, TẢ NGƯỜI) LỚP 5B-TIỂU HỌC ®iÒn l­ 2 : Học sinh chưa có kĩ năng quan sát đối tượng miêu tả, kĩ năng quan sát từ những điều mình đã nhìn thấy còn rất hạn chế. Không chủ động sáng tạo khi diễn đạt nội dung từng phần cũng như toàn bài. Còn thụ động tiếp thu bài giảng, không sáng tạo, còn rập khuôn văn mẫu. Kĩ năng liên kết , sắp xếp các ý trong đoạn bài còn rất còn rất hạn chế. Kĩ năng sử dụng ngôn từ,diễn đạt ý thành câu văn còn vụng về . Nhìn chung chương trình mới có tính phát huy khả năng chủ động của học sinh hơn. Tuy nhiên, kĩ năng dùng từ diễn đạt còn rất hạn chế. Nhiều em trình bày câu văn còn sơ sài,cộc lốc, thiếu tự nhiên. Từ thực tế trên dẫn đến chất lượng môn văn (tả cảnh, tả người) còn thấp: Điểm 9 : không có Điểm7-8 : 2em Điểm5-6 : 12em Điểm dưới 5: 4em Từ thực trạng trên tôi đã nhiều lần trăn trở làm sao để học sinh có hứng thú học tốt tiết tập làm văn miêu tả đồng thời nâng cao chất lượng dạy học môn tập làm văn của học sinh. III)NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG: 1. Học sinh: * Khả năng quan sát của học sinh còn hạn chế: chưa xác định rõ đối tượng quan sát là gì? Nó như thế nào? Cách thức miêu tả ra sao? Diễn đạt lại nó bằng cách nào? (sử dụng ngôn từ nội dung diễn đạt). *Điều kiện sách tham khảo còn hạn chế dẫn đến vốn từ nghèo nàn, việc sử dụng từ ngữ có hình ảnh trong đoạn văn còn ít, chưa có thói quen ghi chép, thu hoạch, sau khi đọc sách báo, sách tham khảo. *HS còn lúng túng trong cách viết văn thông thường các em bắt chước theo bạn ,theo thầy cô .Mà bản chất của làm văn không phải là sự bắt chước máy móc ,nếu bắt chước mãi thì bài văn không còn gì là của riêng mình như vậy dần biến mình thành người máy . *Nhiều em còn có thói quen hình thành bài văn theo cách trả lời câu hỏi, thói quen học thuộc bài văn mẫu. *Nhiều em còn lười học, chưa có thái độ đúng đắn trong học tập. 2. Giáo viên: *Chưa tạo được đòn bẩy cho phân môn này. Chưa gây được hứng thú cho các em, chưa phối hợp tốt Tập làm văn với các phân môn khác như: Tập đọc - luyện từ và câu-kể chuyện. *Chưa rèn được cho học sinh kĩ năng quan sát và dùng ngôn ngữ diễn đạt lại những gì mình đã quan sát được. *Chưa tổ chức được nhiều hoạt động nhằm phát triển ngôn ngữ tư duy ở học sinh như: tham quan một vài cảnh đẹp ở địa phương, phát động phong trào đọc sách báo, tập sáng tác thơ,truyện ngắn. SKKN / Lớp 5 / ®ç thÞ tiªn / Năm học : 2009-2010 . 2
  3. *Người dạy đôi khi chưa xác định được chuẩn kiến thức của phân môn làm văn ,nghĩa là bài viết của học sinh như thế nào là công nhận được ? Dạy như thế nào có thể được gọi là tiết tốt ?Nếu xác định được chuẩn này thì chúng ta mới có thể thống nhất được khi đánh giá chất lượng dạy cũng như chất lượng học . *Mỗi giáo viên đều có mong muốn nâng cao dần kết quả bài làm văn của học sinh trong khi việc dạy của thầy ,cô giáo lại chưa đạt được yêu cầu hướng dẫn ,dìu dắt người học từng bước .Khi chấm bài giáo viên dễ dàng tìm ra sai sót nhưng chúng ta lại chưa chỉ ra đầy đủ đúng hướng cho học sinh -Bản thân người thầy còn lúng túng thì sao trò có thể có điều kiện học tốt môn tập làm văn được . *Lớp nào cũng có 4 trình độ :Giỏi ,Khá ,Trung bình ,Yếu nhưng xác định ,phân loại đúng trình độ này và định hướng dạy phù hợp theo từng trình độ là một vấn đề còn nhiều bàn cãi . *Sách viết về phương pháp dạy làm văn ,sách tham khảo hiện nay nhiều nhà xuất bản ,xuất bản ồ ạt gây cho giáo viên không ít khó khăn trong việc lựa chọn sách .Chẳng hạn như “để học tốt Tiếng Việt “có cả gần chục loại sách chẳng lẽ phải mua tất cả các loại sách sao ? Vì thế nhiều giáo viên đâm ra lúng túng trong việc lựa chọn sách . 2.Cha mẹ học sinh : *Cha mẹ học sinh có thể giúp học sinh Tiểu học học tốt các môn học khác .Song phân môn Tập làm văn thì sẽ gặp khó khăn ,một phần vì thiếu điều kiện thời gian ,mặt khác phụ huynh sẽ lúng túng trong việc nắm bắt nội dung ,phương pháp dạy vì vậy việc đôn đốc ,hỗ trợ học sinh học ở nhà còn rất hạn chế . *Nhiều cha mẹ học sinh chưa đầu tư sách tham khảo về phân môn tập làm văn cho con em đọc ,chưa xây dựng được tủ sách phục vụ tốt cho việc học môn văn ở Tiểu học như các em có điều kiện ở thành phố . *Tóm lại : Cho dù đề cập đến nhiều nguyên nhân rất thực tế song nguyên nhân giảng dạy vẫn là chính vẫn là cơ bản .Vì vậy mỗi giáo viên cần phải nhận thức được cần phải dạy sao cho tốt để người học đạt kết quả tốt .Xuất phát từ suy nghĩ trên tôi đã thực hiện một số giải pháp cụ thể đối với phân môn Tập làm văn như sau : SKKN / Lớp 5 / ®ç thÞ tiªn / Năm học : 2009-2010 . 3
  4. B) gi¶i quyÕt vÊn ®Ò: I)CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN: 1. Giúp học sinh xác định rõ mục đích, yêu cầu của phân môn đối với thể loại văn miêu tả. 2. Rèn kĩ năng phân tích đề, nhận diện văn bản: thể loại nào? Đối tượng miêu tả là cái gì? Miêu tả ra sao? Tả bằng cách nào? Quan sát đối tượng, tìm ý, sắp xếp ý thành dàn ý. 3. Xây dựng đoạn, liên kết đoạn thành bài. 4. Đối chiếu, sửa chữa lỗi về nội dung, diễn đạt. 5. Phải chủ động, tích cực trong quá trình dạy học. 6. Phải viết văn có cảm xúc và chân thực. Trình bày đúng, đủ, rõ ý bằng lời văn chân thành, giản dị. II) c¸c biÖn ph¸p cô thÓ : Từ mục đích, yêu cầu xác định ở mục I, tôi đã thực hiện một số giải pháp sau : 1. Hình thành kĩ năng phân tích đề: Cần rèn kĩ năng lĩnh hội ngôn ngữ thông qua việc tìm hiểu yêu cầu của đề bài. Từ đó có kĩ năng nhận diện các văn bản. ➢ Đề bài thuộc thể loại gì? Kiểu bài gì? Đối tượng miêu tả là gì?( Đối tượng chính ,đối tượng chấm phá thêm .) ➢ Miêu tả như thế nào? Cách thức miêu tả ra sao? Quá trình phân tích, tìm hiểu đề giáo viên gạch chân những từ ngữ quan trọng. 2. Dạy học sinh quan sát, tìm ý cho bài văn miêu tả: ➢ Đầu tiên phải định hướng cho học sinh đối tượng quan sát. ➢ Rèn kĩ năng sử dụng các giác quan để nhận biết sự vật: Mắt cho ta cảm giác về màu sắc, cảnh vật (chiều, trưa, tối ), làn da (đen, trắng, hồng ), hình dáng, hoạt động Tai ghi nhận được những âm thanh từ đối tượng quan sát: tiếng còi xe, tiếng chim, tiếng hát, giọng nói Xúc giác, vị giác, khướu giác ➢ Đối với loại văn miêu tả: Giáo viên định hướng các em khi quan sát cần tìm ra đặc điểm riêng biệt của đối tượng-Bỏ qua đặc điểm chung, không liệt kê từng đặc điểm để tránh bài văn nhàm chán, khô khan như một bảng thống kê. Ví dụ: Khi tả ngoại hình một người ta không nhất thiết liệt kê hết đầy đủ các chi tiết: đầu, cổ, tay, chân, mắt, mũi, miệng, răng mà chỉ lựa chọn chi tiết nổi bật nhất để tả. Ví dụ: Bài: “ Bà tôi “ của Mác xim Go rơ-ki: “Mái tóc bà đen, dày kì lạ, phủ kín cả hai vai, mớ tóc dày”. tả giọng nói của bà: Trầm bổng như tiếng chuông đồng. ➢ Phân chia đối tượng quan sát: SKKN / Lớp 5 / ®ç thÞ tiªn / Năm học : 2009-2010 . 4
  5. Đối tượng chính. Đối tượng chấm phá thêm. ➢ Lựa chọn trình tự quan sát: Không gian, thời gian tuỳ theo mỗi trình tự quan sát, tuy nhiên với trình tự nào cũng tập trung chủ yếu vào đối tượng chủ yếu, trọng tâm. ➢ Rèn kĩ năng ghi chép khi quan sát: cần hướng dẫn các em biết tích luỹ vốn từ ngữ miêu tả và lựa chọn tư ngữ khi miêu tả. 3. Tạo điều kiện để học sinh tích luỹ vốn từ ngữ khi miêu tả: ➢ Biện pháp đầu tiên là giúp các em tích luỹ vốn từ qua các bài tập đọc. Đối với các bài tập đọc ở thể loại miêu tả ( tả cảnh, tả người ) như : Quang cảnh làng mạc ngày mùa , Một chuyên gia máy xúc , Tiếng đàn ba-la –lai –ca trên sông đà GV giúp học sinh phân tích kĩ bố cục ,cách dùng từ diễn đạt ý của từng tác giả để học sinh có kĩ năng hình thành bố cục bài văn . ➢ Tiết luyện từ và câu không chỉ giúp các em hiểu rõ từ mà còn mở rộng chúng khi tìm từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa. Ví dụ: Khi tả ngoại hình của một người ta không chỉ dùng tính từ gầy thì còn nhiều từ đồng nghĩa khác: khô đét, lép kẹp, gầy nhom, xương xẩu Và bên cạnh tính từ đẹp còn có: trông dễ mến, xinh xinh, xinh xắn,dễ coi Việc học tập mở rộng các từ ngữ gợi tả: từ láy, từ tượng hình, từ tượng thanh cũng rất cần thiết để học sinh mở rộng vốn từ. 4. Lựa chọn vốn từ khi miêu tả: Có vốn tư rồi các em cần phải biết dùng từ đúng lúc, đúng chỗ. Muốn vậy phải coi trọng việc sử dụng từ ngữ khi diễn đạt kết quả quan sát cũng như bài làm của học sinh khi miêu tả, có thể hướng dẫn học sinh theo các cách sau: ➢ Khi lựa chọn từ có thể so sánh với các từ đồng nghĩa hay trái nghĩa. Ví dụ: Tả một người mập ta dùng từ nào trong các từ sau: tròn lẳn, mập ú, múp míp. Cần luyện tập kiên trì, chống dễ dãi khi dùng từ ngữ. ➢ Cần lựa chọn câu hỏi gợi mở để học sinh phát hiện ra từ ngữ. Ví dụ: Tả con đường đến trường: Nhìn con đường quanh co trong làng gợi cho em liên tưởng đến hình ảnh nào? Hai hàng phi lao rợp mát bên đường gợi cho em nghĩ đến điều gì? 5/ Dạy từ điểm xuất phát của trình độ học sinh nâng dần từng bước. a) Thực ra điều này không mới. Giáo viên nào cũng phải làm. Riêng tôi nghĩ, sau ít nhất một tháng tôi phải xác định được học sinh tôi dạy có những điều tốt, những điều chưa tốt như thế nào về làm văn. Tất nhiên nhận xét kết luận ấy còn phải được bổ sung thường xuyên trong suốt học kỳ, suốt năm học. Yêu cầu đặt ra là giáo viên phải hiểu thực sự trình độ người học ,phải phân loại được trình độ học tập của học sinh theo các mức độ :Giỏi ,Khá ,T/bình ,Yếu về SKKN / Lớp 5 / ®ç thÞ tiªn / Năm học : 2009-2010 . 5