Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp dạy học môn Vật lý

doc 16 trang sangkien 29/08/2022 3160
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp dạy học môn Vật lý", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_doi_moi_phuong_phap_day_hoc_mon_vat_ly.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp dạy học môn Vật lý

  1. Sáng kiến kinh nghiệm: Đổi mới phương pháp giảng dạy môn Vật lý PHẦN I: MỞ ĐẦU A. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Nền kinh tế nước ta được chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước được nhiều năm. Công cuộc đổi mới này đề ra những yêu cầu mới đối vơí hệ thống giáo dục, Nghị quyết lần thứ 4 của BCH TW Đảng khẳng định: " Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo". Mục tiêu đào tạo, nghị quyết nhấn mạnh đến đào tạo ra những con người lao động, tự chủ, năng động và sáng tạo, có năng lực giải quyết vấn đề do thực tiễn đặt ra, tự lo được việc làm, lập nghiệp và thăng tiến trong cuộc sống. Để qua đó góp phần xây dựng đất nước giầu mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Vật lý học là một trong những môn khoa học về tự nhiên, nhiệm vụ chủ yếu của nó là nghiên cứu các hiện tượng vật lý, tìm nguyên nhân, khám phá ra các định luật vật lý phục vụ lợi ích của con người. Vật lý là cơ sở cho nhiều ngành kỹ thuật. Những thành tựu của vật lý và kỹ thuật phục vụ rất nhiều cho cuộc sống của con người trên mọi mặt. Vì vậy trong đổi mới phương pháp giáo dục thì phát triển trí tuệ và năng lực sáng tạo của học sinh có ý nghĩa quan trọng. Để có hiệu quả cao trong giảng dạy thì người giáo viên phải thường xuyên nghiên cứu, sử dụng những thành quả của những môn khoa học có liên quan, cần phải tiếp thu những thành tựu tiên tiến, những kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy theo hướng đổi mới. Với những lý do trên nên tôi chọn đề tài: " Đổi mới phương pháp dạy học môn vật lý" B. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN ĐỀ TÀI I./ CƠ SỞ LÝ LUẬN: - Xuất phát từ mục tiêu giáo dục và đào tạo của đất nước hiện nay.Phải đào tạo ra thế hệ trẻ thành người lao động làm chủ đất nước, có trình độ văn hoá cơ bản, đáp ứng những yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Những con người có trí tuệ và năng lực sáng tạo, có phẩm chất đạo đức, tư tưởng tốt. Những con người như vậy phải được rèn luyện trong quá trình đào toạ và tự tạo. Để đạt được mục tiêu đó thì trong giảng dạy ở nhà trường phổ thông điều quan trọng nhất là phát triển trí tuệ và năng lực sáng tạo của học sinh trong học tập. Hoạt động nhận thức trong dạy học lấy học sinh làm trung tâm, làm chủ thể của việc nhận thức với sự hướng dẫn giúp đỡ giảng dạy tích cực có hiệu quả của giáo viên và việc học tập tích cực, tự giác, sáng tạo của học sinh. - Xuất phát từ nội dung bản chất của quá trình dạy học, hoạt động nhận thức. Ý thức và phẩm chất tâm lý, năng lực của con người biểu hiện và được hình thành trong hoạt động của con người. Việc dạy học sẽ làm cho học sinh phát triển khác nhau tuỳ thuộc ở nội dung và phương pháp dạy học. Vì vậy việc dạy học không chỉ quan tâm đến nhiệm vụ làm cho học sinh tiếp thu được một Trang 1/16 GV thực hiện: Đặng Thị Loan - Trường THCS Trần Phú – TX Gia Nghĩa
  2. Sáng kiến kinh nghiệm: Đổi mới phương pháp giảng dạy môn Vật lý số kiến thức nào đó, mà còn phải quan tâm tới nhiệm vụ phát triển trí tuệ học sinh. Trong quá trình làm cho học sinh nắm vững kiến thức, kỹ năng, nhiệm vụ của quá trình dạy học không phải chỉ giới hạn ở sự tạo thành các kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo có tính chất tái tạo đơn thuần. Mà cần phải làm sao cho trong quá trình dạy học phát triển được ở học sinh năng lực áp dụng kiến thức trong tình huống mới. Giải những bài toán không phải chỉ là chỉ theo khuôn mẫu đã có, thực hiện những bài toán làm có tính chất nghiên cứu và thiết kế, vạch ra các angorit hợp lý mà trước kia chưa biết để giải các bài toán thuộc loại mới, cũng như nắm được những kỹ năng, kỹ xảo mới hợp yêu cầu thực tiễn. Tức là phải phát triển năng lực sáng tạo của học sinh. - Từ thực tế giáo dục hiện nay. Việc phấn đấu cho học sinh tự tìm tòi, tự hiểu biết để phát triển, khai thác, hưởng thụ những thành quà lao động vẫn chưa tự bỏ cách giáo dục mang tính thực dụng. Không ít giáo viên chỉ chăm lo cung cấp cho học sinh những kiến thức cần thiết để các em làm bài điểm cao mà không chú ý phát huy trí lực của học sinh, không quan tâm đến việc rèn luyện trí thông minh, sáng tạo của học sinh. Điều này nguy hại là, sau khi học xong các hiện tượng vật lý và các định luật về vật lý một số em lại không biết vận dụng các hiện tượng, định luật đó vào để giải thích một số hiện tượng về khoa học tự nhiên và không chỉ ra được ứng dụng rộng rãi của nó trong khoa học kỹ thuật. - Xuất phát từ xu thế giáo dục của thế giới hiện nay: Về đổi mới phương pháp là vấn đề cấp bách của thời đại đối với chúng ta. Ngày nay sự đổi mới phương pháp dạy học là sự sống của giáo dục Việt Nam. Vì trước những bước tiến của nhân loại, đất nước ta đang đổi mới nền kinh tế để hoà nhập với thế giới hiện đại. Do vậy việc đổi mới phương pháp dạy học là không thể thiếu được trong nhà trường hiệnnay. Dạy học, lấy học sinh làm trung tâm là cốt lõi của việc đổi mới phương pháp dạy học. Có như vậy thì mới có phát huy được nang lực. Năng lực đó phải được đào tạo và rèn luyện thành thói quen, phải được hình thành từ nhà trường phổ thông cũng như của môn khoa học tự nhiên khác. Vì môn Vật lý là môn khoa học thực nghiệm nó là cơ sở cho nhiều ngành kỹ thuật, các máy móc được chế tạo dựa trên các thành tựu vật lý: Động cơ ô tô, máy bay được chế tạo dựa vào kiến thức về nhiệt, Máy phát điện, động cơ điện, vô tuyến truyền hình được chế tạo dựa trên kiến thức về điện những thành tựu của vật lý và kỹ thuật phục vụ rất nhiều cho cuộc sống của con người trên mọi mặt. Vì vậy việc đổi mới phương pháp trong dạy học vật lý là không thể thiếu được. II. NHỮNG THỰC TẾ HIỆN NAY KHI CHƯA ĐƯỢC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI Trong những năm cải cách giáo dục (1981 đến nay) chúng ta đang cố gắng và đa dạng hoá cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân. Cải cách giáo dục trên cả 3 mặt: hệ thống giáo dục, nội dung và phương pháp dạy học. Song phương pháp giáo dục vẫn chưa được quan tâm và phương pháp dạy học chưa được đổi mới tương xứng. Mặc dù những năm gần đây có cố gắng mà cụ thẻ là số giáo viên giỏi, học sinh giỏi cũng đã tăng nhiều so với những năm trước. Tuy nhiên tình trạng phổ biến vẫn là: Trang 2/16 GV thực hiện: Đặng Thị Loan - Trường THCS Trần Phú – TX Gia Nghĩa
  3. Sáng kiến kinh nghiệm: Đổi mới phương pháp giảng dạy môn Vật lý + Các bài dạy chưa có đầy đủ các thí nghiệm, vẫn còn tình trạng dạy chay. Các bài thực hành thì không có nhiều bộ đồ dùng để học sinh tự làm mà chỉ có 1 đến 2 bộ thí nghiệm. + Giáo viên thuyết trình kết hợp với đàm thoại chưa đưa học sinh vào tình huống có vấn đề. Giáo viên chỉ sợ học sinh không trả lời được do đó học sinh nhiều khi chỉ cần trả lởi "có" hay "không". + Học sinh được luyện tập ở mức tối thiểu và chủ yếu là vận dụng tri thức một cách máy móc đơn giản. III. NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỂ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN VẬT LÝ Ở TRƯỜNG THCS. 1. Nắm bắt được mục tiêu của mỗi bài học (Lượng hoá kiến thức) Mục tiêu: Là căn cứ để đánh giá chất lượng của học sinh và hiệu quả bài dạy của giáo viên. Người học sinh phải nắm được cái gì sau bài học. Mục tiêu cần phải được lượng hoá. Có 3 nhóm mục tiêu: a. Mục tiêu kiến thức: Yêu cầu học sinh phải lĩnh hội các khái niệm vật lý cơ sở để có thể mô tả đúng các hiện tượng và quá trình vật lý cần nghiên cứu và giải thích một số hiện tượng và quá trình vật lý đơn giản. Tuy chưa thể định nghĩa chính xác khái niệm đó, nhưng cũng cần phải giúp học sinh nhận biết được những dấu hiệu cơ bản có thể quan sát, cảm nhận được của các khái niệm đó. Sau đó học sinh vận dụng cho quen trong ngôn ngữ khoa học thay cho ngôn ngữ thông thường ban đầu. Thí dụ khái niệm ảnh ảo: Thông thường học sinh chỉ biết cái ảnh cụ thể, có thể nhìn thấy, sờ thấy như ảnh ở thẻ học sinh, ảnh in trên báo ảnh ảo là một khái niệm khác hẳn, tuy là ảnh ảo nhưng vẫn tồn tại thật, vẫn xác định được vị trí, độ lớn nhưng lại không hứng được trên màn. Học sinh phân biệt được ảnh ảo ảnh thật. Chú trọng việc xây dựng kiến thức xuất phát từ những hiểu biết, những kinh nghiệm đã có của học sinh rồi sửa đổi, bổ sung phát triển thành kiến thức khoa học. Tránh việc đưa ra ngay những khái niệm trừu tượng xa lạ với học sinh, diễn đạt bằng những câu, chữ khó hiểu. Thông thường một định luật vật lý có hai phần: Phần định tính và định lượng. Tuỳ từng định luật giáo viên có thể đưa cả hai phần hay không? Thí dụ: - Biên độ giao động của vật giao động càng lớn thì âm phát ra càng to. - Hiệu điện thế giữa hai đầu bóng đèn càng lớn (nhỏ) thì dòng điện chạy qua bóng đèn có cường độ dòng điện càng lớn (nhỏ). Những hiểu biết về phương pháp nhận thức khoa học cũng được nâng cao thêm một mức. Cần hướng dẫn học sinh thường xuyên đưa nhiều dự đoán khác nhau về cùng một hiện tượng và tự lực đề xuất các phương án làm thí nghiệm để Trang 3/16 GV thực hiện: Đặng Thị Loan - Trường THCS Trần Phú – TX Gia Nghĩa
  4. Sáng kiến kinh nghiệm: Đổi mới phương pháp giảng dạy môn Vật lý kiểm tra dự đoán. Có thể học sinh chỉ nêu được sơ bộ về phương án, kiểm tra, giáo viên cần giúp đỡ họ phát triển hoàn chỉnh phương án để trở thành khả thi hoặc thảo luận để chọn phương án tối ưu. Cần hướng dẫn học sinh thực hiện một số phương pháp suy luận khác như phương pháp tương tự, phương pháp tìm nguyên nhân của hiện tượng. Những hiểu biết về phương pháp nhận thức đó, nhằm rèn luyện cho học sinh thói quen mỗi khi rút ra một kết luận không thể dựa vào cảm tính mà phải có căn cứ thực tế và biết cách suy luận chặt chẽ. b. Về kỹ năng và khả năng - Về kỹ năng quan sát: Bước đầu xây dựng cho học sinh biết quan sát mục đích, có kế hoạch. Trong một số trường hợp đơn giản học sinh có thể tự vạch ra kế hoạch quan sát chứ không phải tuỳ tiện ngẫu nhiên, có khi phải tổ chức cho học sinh trao đổi kỹ trong nhóm về mục đích kế quan sát rồi mới thực hiện quan sát. - Kỹ năng thu thập xử lý thông tin từ quan sát thí nghiệm chú trọng trong việc ghi chép các thông tin thu thập được, lập thành biểu bảng một cách trung thực. Việc xử lý thông tin, dữ liệu thu được phải theo những phương pháp xác định, thực chất phương pháp suy luận là để từ những dữ liệu, số liệu cụ thể rút ra kết luạn chung (quy nạp) hay từ những tính chất quy luật chung suy ra những biểu hiện cụ thể trong thực tiễn (suy diễn). Chú trọng ngôn ngữ phát triển, ngôn ngữ vật lý ở học sinh. Yêu cầu học sinh phải sử dụng những khái niện mới để mô tả và giải thích các hiện tượng, các quá trình, rèn luyện kỹ năng diễn đạt rõ ràng, chính xác ngôn ngữ của vật lý, thông qua việc trình bày các kết quả quan sát nghiên cứu và trong thảo luận ở nhóm, ở lớp. Tạo điều kiện để học sinh nói nhiều hơn ở nhóm, ở lớp. c. Về tình cảm, thái độ: Học sinh bước đầu được làm quen với cách học tập mới, cá nhân độc lập suy nghĩ làm việc theo nhóm, tranh luận ở lớp. Không khí học sôi nổi, vui vẻ, thoải mái, hào hứng hơn. Song giáo viên vẫn phải uốn nắn đưa vào nề nếp. Yêu cầu học sinh trung thực, tỷ mỉ, cẩn thận trong khi làm việc cá nhân. Khuyến khích học sinh mạnh dạn nêu ý kiến của mình, không dựa dẫm vào bạn. Có tinh thần cộng tác phối hợp với các bạn trong hoạt động chung của nhóm. Phân công mỗi người một việc, mỗi lần một người trình bày ý kiến của tổ, biết nghe ý kiến của bạn, thảo luận một cách dân chủ. Biết kiềm chế mình, trao đổi trong nhóm đủ nghe không gây ồn ào ảnh hưởng đến toàn lớp. 2. Tổ chức học sinh học tập chiếm lĩnh tri thức. Hình thức chủ yếu vẫn là học tập theo lớp,c ả lớp cùng nghiên cứu một vấn đề, đạt đến cùng một kết luận. riêng bài thực hành khác với trước đây, bây giờ bao gồm 2 loại: - Loại thứ nhất: Học sinh thông qua mà hình thành kiến thức mới. Loại này khác với loại bài nghiên cứu kiến thức mới thông thường dựa trên thí nghiệm ở chỗ: học sinh phải tiến hành các phép đo đạc định lượng, phải làm báo Trang 4/16 GV thực hiện: Đặng Thị Loan - Trường THCS Trần Phú – TX Gia Nghĩa