SKKN Kinh nghiệm vận dụng phương pháp dạy học thảo luận nhóm trong việc giảng dạy môn Vật lý ở trường trung học phổ thông

doc 12 trang sangkien 30/08/2022 5820
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Kinh nghiệm vận dụng phương pháp dạy học thảo luận nhóm trong việc giảng dạy môn Vật lý ở trường trung học phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_kinh_nghiem_van_dung_phuong_phap_day_hoc_thao_luan_nhom.doc

Nội dung text: SKKN Kinh nghiệm vận dụng phương pháp dạy học thảo luận nhóm trong việc giảng dạy môn Vật lý ở trường trung học phổ thông

  1. mục lục Số TT Nội dung Trang A. Đặt vấn đề 2 B. Giải quyết vấn đề. 1. Điều tra thực trạng trước khi nghiên cứu vấn đề 2 2. Phương pháp nghiên cứu. . . 3 3. Nội dung 3.1 Một số kinh nghiệm trong soạn giáo án và tiến hành bài giảng 3 3.1 Những công việc thực tế đã làm. 5 3.2 Kết quả đạt được. . 9 3.3 So sánh đối chứng. . . 10 4. Bài học kinh nghiệm . 11 5. Phạm vi áp dụng. 11 6. Những vấn đề bỏ ngỏ. . 11 C. Kết luận. 12 Những chỳ ý trong trỡnh bày nội dung: - Cỏc từ viết tắt: o SGK : Sỏch giỏo khoa. o GV : Giỏo viờn. oHS: Học sinh. o PP : Phương phỏp. o PPDH : PP dạy học o TLN : Thảo luận nhúm Đề tài: Trang 1
  2. “Kinh nghiệm vận dụng phương pháp dạy học thảo luận nhóm trong việc giảng dạy môn Vật lý ở trường trung học phổ thông.” A. Đặt vấn đề Vật lý học là một bộ môn khoa học lý thú và hấp dẫn. Tuy vậy, thực tế tôi nhận thấy: Kết quả môn học chưa cao. Nhiều học sinh bị mất căn bản. Các PPDH tích cực phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi dưỡng PP tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh, chống lại thói quen học tập thụ động. áp dụng các PP tích cực không có nghĩa là gạt bỏ các PP truyền thống. Cần kế thừa, phát triển những mặt tích cực trong hệ thống các PPDH. Đặc biệt là những huyện vùng sâu, vùng xa còn khó khăn như huyện Iapa cần phải vận dụng một số PPDH mới phù hợp với điều kiện dạy và học của vùng. PP tích cực có rất nhiều như : PP vấn đáp tìm tòi ; PPDH đặt và giải quyết vấn đề; PP thảo luận nhóm. Trong quá trình giảng dạy cũng như qua việc dự giờ đồng nghiệp, tôi thấy PP thảo luận nhóm giúp cho giờ dạy thêm sôi nổi, học sinh hứng thú, giờ dạy đạt hiệu quả hơn. B. Giải quyết vấn đề . 1.Thực trạng trước khi nghiên cứu vấn đề : Thời gian gần đây, việc dạy - học môn Vật lý trong trường THPT nói chung và trường THPT Nguyễn Tất Thành nói riêng đã có những chuyển biến theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh. Tuy vậy, việc áp dụng PP TLN còn một số vướng mắc sau :  Sự vận dụng những định hướng đổi mới PPDH theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học chưa được thường xuyên và còn máy móc. Ví dụ: áp dụng quá nhiều PP TLN trong một tiết học dẫn đến có những câu hỏi rất đơn giản trong khi những câu hỏi như vậy chỉ cần cho học sinh độc lập suy nghĩ là đủ.  Việc phân nhóm và điều hành học sinh thảo luận còn gặp khó khăn.  Dự kiến thời gian chưa phù hợp: Nếu quá ít, các em sẽ không có đủ thời gian thảo luận. Nếu quá nhiều, sẽ lãng phí thời gian dành cho các hoạt động khác, lớp học sẽ lộn xộn. Trang 2
  3.  Học sinh chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học nếu không được giao nhiệm vụ, hoặc nếu có được giao nhiệm vụ thì còn lúng túng khi cùng nhau giải quyết vấn đề. Trên đây là một số vấn đề nổi cộm trong thực tế. Nếu chúng ta biết chọn lựa những câu hỏi phù hợp với đối tượng học sinh và đặc trưng của tiết học thì sẽ đạt hiệu quả như mong muốn. 2. Phương pháp nghiên cứu . Trong quá trình viết kinh nghiệm này tôi đã vận dụng các phương pháp sau : a/ PP điều tra: Điều tra việc giảng dạy - học tập ở một số tiết dạy môn Vật lý b/ PP đối chứng: So sánh kết quả trước và sau khi dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ. c/ PP nghiên cứu tài liệu: Sưu tầm và nghiên cứu các tài liệu có liên quan d/ PP kiểm tra: Đưa một số bài tập yêu cầu học sinh làm để lấy kết quả. 3. NộI DUNG. 3.1.Một số kinh nghiệm khi soạn giáo án và tiến hành bài giảng sử dụng PP TLN : a) Trước hết GV phải nắm được mục tiêu đã lượng hoá của từng bài không chung chung. Vì như vậy, ta không có cơ sở để biết khi nào thì HS đã đạt được mục tiêu đó và càng không nên hiểu là những điều mà GV sẽ phải làm khi giảng dạy. Tôi quan niệm về mục tiêu của bài học là lời khẳng định về kiến thức, kĩ năng và thái độ mà người học sẽ phải đạt được ở mức độ nhất định sau tiết học (tức được lượng hoá) Người ta thường lượng hoá mục tiêu bằng các động từ hành động. Đối với nhóm mục tiêu kiến thức được lượng hoá theo 3 (trong 6) mức độ nhận thức: Mức độ nhận biết (B): Các động từ hành động thường được dùng để lượng hoá mục tiêu ở mức độ này là: phát biểu, liệt kê, mô tả, trình bày, nhận dạng, Mức độ thông hiểu(H): Các động từ hành động thường được dùng để lượng hoá mục tiêu ở mức độ này là: phân tích, so sánh, phân biệt, tóm tắt, liên hệ, xác định, Mức độ vận dụng (V): Các động từ hành động thường được dùng để lượng hoá mục tiêu ở mức độ này là: giải thích, chứng minh, vận dụng, + Đối với nhóm mục tiêu kĩ năng được lượng hoá theo 2 mức độ:  Làm được một công việc  Làm thành thạo một công việc Có thể lượng hoá mục tiêu kĩ năng bằng các động từ hành động sau: nhận dạng, liệt kê, thu thập, đo đạc, vẽ, phân loại, tính toán, làm thí nghiệm, sử dụng, + Đối với nhóm mục tiêu thái độ được lượng hoá bằng các động từ thể hiện các mức độ như: tuân thủ, tán thành, phản đối, hưởng ứng, chấp nhận, bảo vệ, hợp tác, b) Phải chuẩn bị chu đáo về điều kiện, phương tiện cho giờ học: Như là + Hệ thống các câu hỏi: Câu hỏi kiểm tra kiến thức, kĩ năng cũ (phiếu học tập). Câu hỏi điều khiển hoạt động nhận thức của HS. Câu hỏi vận dụng, củng cố bài (phiếu học tập) Trang 3
  4. + Phương tiện và thiết bị dạy học: Tranh ảnh, mô hình, mẫu vật, dụng cụ thí nghiệm, hoá chất, vật liệu tiêu hao Bảng phụ, máy chiếu, + Hình thức tổ chức lớp học, nơi học + Sử dụng CNTT: Câu hỏi trắc nghiệm, thí nghiệm ảo, các đoạn video c) Tổ chức cho HS hoạt động chiếm lĩnh kiến thức và kĩ năng phù hợp với mục tiêu : Nội dung một số hoạt động dạy học cụ thể trong vật lí: + Tổ chức tình huống học tập (chủ yếu là xác định nhiệm vụ học tập): Đặt câu hỏi nghiên cứu. Nêu dự đoán. Đề ra giả thuyết. + Thu thập thông tin: Quan sát các sự kiện, hiện tượng, TN. Tìm được những thông tin cần thiết từ sách, báo Lập kế hoạch khám phá (Ví dụ: thiết kế TN; lựa chọn dụng cụ TN; chỉ ra đại lượng cần đo, những điều cần xác định trong TN, những yếu tố không thay đổi khi làm TN). Tiến hành khám phá (Ví dụ : bố trí, lắp đặt dụng cụ thiết bị TN; thực hiện TN; thay đổi phương án TN nếu kết quả không phù hợp với vấn đề đặt ra). Ghi các kết quả khám phá (Ví dụ : đọc số chỉ của các dụng cụ TN ở mức độ cẩn thận và chính xác cần thiết; lập bảng kết quả; biểu diễn kết quả bằng đồ thị, sơ đồ, ) + Xử lí thông tin: Lập bảng, biểu, vẽ đồ thị theo những cách khác nhau, từ đó phân tích dữ liệu và nêu ý nghĩa của chúng. Tìm quy luật từ biểu, bảng, đồ thị. Phân loại dấu hiệu giống nhau, khác nhau, nhận biết những dấu hiệu bản chất của những nhóm đối tượng đã quan sát So sánh, phân tích, tổng hợp dữ liệu và rút ra kết luận. + Truyền đạt thông tin: Mô tả lại những thí nghiệm đã làm. Trình bày, giải thích những việc đã làm (bằng lời, bằng hình vẽ, đồ thị, ). Nêu kết luận đã tìm thấy được. + Vận dụng, ghi nhớ kiến thức: Giải các bài tập (định tính, định lượng, thực nghiệm); Làm đồ chơi, dụng cụ học tập, Học thuộc lòng. Kinh nghiệm cho thấy khi dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS bằng PP TLN trong thời gian một tiết học 45 phút, GV thường dễ bị “cháy” giáo án vì xảy ra nhiều tình huống khác với dự kiến. Do đó GV cần cân nhắc, xác định hoạt động trọng tâm, phân bổ thời gian hợp lí. Dự kiến hệ thống câu hỏi hướng dẫn HS hoạt động Hiệu quả kích thích tư duy HS phụ thuộc rất nhiều vào khả năng của HS. Sẽ vô tác dụng nếu câu hỏi khó để HS không có khả năng trả lời được và không có nghĩa nếu đặt câu hỏi quá dễ đối với khả năng của HS. GV cần động viên ngay những câu trả lời đúng cũng như nhận xét câu trả lời chưa đúng. Nếu tất cả HS đều trả lời sai thì GV cần đặt những câu hỏi đơn giản hơn để HS có thể trả lời được vì HS chỉ hứng thú học khi họ thành công trong học tập. Theo tôi khi hỏi học sinh cần chú ý một số vấn đề:  Trong khi hỏi nên: Dừng một chút sau khi đặt câu hỏi. Nhận xét một cách khuyến khích đối với câu trả lời của học sinh. Tạo điều kiện cho nhiều học sinh trả lời 1 câu hỏi. Tạo điều kiện để mỗi HS đều được trả lời câu hỏi ít nhất một lần trong giờ học. Đưa ra những gợi ý nhỏ cho các câu trả lời hoặc dựa vào một phần nào đó trong câu trả lời để đặt tiếp câu hỏi. Yêu cầu học sinh giải thích câu trả lời của mình. Yêu cầu học sinh liên hệ câu trả lời với những kiến thức khác.  Trong khi hỏi không nên: Nhắc lại câu hỏi của mình. Tự trả lời câu hỏi của mình đưa ra.Nhắc lại câu trả lời của học sinh. d) Cách tổ chức cho HS hoạt động : Trang 4
  5. Hình thức học tập theo nhóm hay được thực hiện khi nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề mới. Có thể tiến hành như sau:  Làm việc chung cả lớp: GV nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức, chia lớp thành các nhóm, giao nhiệm vụ cho từng nhóm và hướng dẫn gợi ý cho mỗi nhóm các vấn đề cần lưu ý khi trả lời câu hỏi, hoàn thành bài tập.Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả và thảo luận chung (nhận xét, đóng góp ý kiến và bổ sung cho nhau). GV tổng kết và chuẩn xác kiến thức.  Làm việc theo nhóm: Phân công trong nhóm (cử nhóm trưởng, thư kí, phân việc cho các thành viên). Từng cá nhân làm việc độc lập, sau đó thảo luận trong nhóm và cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ của nhóm. Mỗi nhóm cử đại diện trình bày kết quả làm việc của nhóm Hạn chế tổ chức cho HS học tập theo nhóm ngay tại lớp là không gian chật hẹp, thời gian ngắn của tiết học nên GV phải biết tổ chức hợp lí mới có kết quả. Không nên lạm dụng các hoạt động nhóm và cần đề phòng xu hướng hình thức. Trong hoạt động nhóm, tư duy tích cực của HS phải được phát huy và ý nghĩa quan trọng của nó là rèn luyện năng lực hợp tác. đ) Sử dụng thiết bị thí nghiệm và phương tiện dạy học theo hướng tích cực. Các thiết bị dạy học được sử dụng không chỉ minh hoạ lời giảng giải của GV mà chủ yếu là phương tiện để HS khai thác tìm tòi, phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức. Do vậy, nên để HS được tự tay làm thí nghiệm, quan sát, đo đạc và rút ra nhận xét; HS tìm hiểu cấu tạo, cách sử dụng một dụng cụ đo; nghiên cứu các số liệu đã cho trong bảng để rút ra kết luận. 3.2. Những công việc thực tế đã làm. Lớp học là môi trường giao tiếp thày trò tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa cá nhân trên con đường chiếm lĩnh kiến thức thông qua hoạt động độc lập của cá nhân và thảo luận nhóm. Thông qua thảo luận trong tập thể, ý kiến cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ. Qua đó người học nâng mình nên một trình độ mới. Khi áp dụng PP TLN cần tôi tiến hành theo các bước sau : a/ Làm việc chung cả lớp . - Giáo viên nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức rồi đưa ra câu hỏi hoặc tình huống - Tổ chức các nhóm , giao nhiệm vụ cho các nhóm. Lớp học được chia thành các nhóm từ 4-6 HS. Các nhóm được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau . - GVhướng dẫn cách làm việc trong nhóm. Có nhiều hình thức học tập nhóm, tuỳ từng nội dung vấn đề, GV có thể lựa chọn những hình thức học tập nhóm cho phù hợp . ở đây tôi chỉ xin đưa ra một số hình thức học tập nhóm phổ biến. Làm việc theo cặp : Hai HS ngồi gần nhau tạo thành một cặp cùng bàn bạc một vấn đề Thảo luận vòng tròn : HS trong nhóm dùng bút nét to ghi lại ý kiến của mình trên một tờ giấy đã chuẩn bị sẵn sau đó lần lượt cho những HS khác trong nhóm cùng thảo luận . Thảo luận hỗn hợp : HS trong nhóm tranh luận , nhóm trưởng ( thư kí) ghi lại Trang 5