SKKN Giúp học sinh học tốt bộ môn Lịch sử ở trường THCS thông qua việc sử dụng các sơ đồ để dạy học

doc 14 trang sangkien 01/09/2022 3541
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Giúp học sinh học tốt bộ môn Lịch sử ở trường THCS thông qua việc sử dụng các sơ đồ để dạy học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_giup_hoc_sinh_hoc_tot_bo_mon_lich_su_o_truong_thcs_thon.doc

Nội dung text: SKKN Giúp học sinh học tốt bộ môn Lịch sử ở trường THCS thông qua việc sử dụng các sơ đồ để dạy học

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài : GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT BỘ MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THCS THÔNG QUA VIỆC SỬ DỤNG CÁC SƠ ĐỒ ĐỂ DẠY HỌC I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí luận Việc học tập Lịch sử, cũng như học tập bất cứ bộ môn nào ở nhà trường đều nhằm cung cấp kiến thức khoa học, hình thành thế giới quan khoa học, phẩm chất đạo đức chính trị cho học sinh. Trong những năm qua khi thực hiện chương trình thay sách giáo khoa, việc đổi mới phương pháp dạy học đã được nhiều người quan tâm và khẳng định vai trò quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học trong việc nâng cao chất lượng dạy học Bộ môn Lịch sử cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ sở của khoa học lịch sử, nên đòi hỏi học sinh không chỉ nhớ mà còn phải hiểu và vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống. Cho nên, cùng với các môn học khác, việc học tập Lịch sử đòi hỏi phát triển tư duy, thông minh, sáng tạo. Đã có quan niệm sai lầm cho rằng học Lịch sử chỉ cần học thuộc lòng sách giáo khoa, ghi nhớ các sự kiện - hiện tượng lịch sử là đạt, không cần phải tư duy - động não, không có bài tập thực hành, Đây là một trong những nguyên nhân làm suy giảm chất lượng môn học. Điều quan trọng nhất trong trong việc đổi mới phương pháp dạy học là thầy dạy thế nào để học sinh động não, làm thay đổi chất lượng hoạt động trí tuệ của học sinh, làm phát triển trí thông minh, trí sáng tạo của các em. Hiện nay, trong quá trình dạy học trên lớp, hoạt động trí tuệ chủ yếu của học sinh là ghi nhớ và tái hiện. Ở nhà, học sinh tự học dưới dạng học bài và làm bài nhưng về căn bản đã được hướng dẫn ở lớp, nên hoạt động trí tuệ của học sinh vẫn nặng về rèn luyện trí nhớ và khả năng tái hiện. Như vậy, rèn luyện năng lực tư duy, khả năng tưởng tượng, sáng tạo phát triển trí tuệ, trí thông minh của học sinh nói chung, được xem là nhiệm vụ chủ yếu, nhiệm vụ quan trọng nhất của quá trình dạy học hiện đại. Vì vậy, then chốt của việc đổi mới phương pháp dạy học là điều chỉnh mối quan hệ giữa tái hiện và sáng tạo, đến việc tăng cường các phương pháp sáng tạo nhằm đổi mới tính chất hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học. 2. Cơ sở thực tiễn : 1
  2. Dạy học Lịch sử là dạy những sự gì đã xảy ra trong quá khứ, mỗi bài học đều có rất nhiều sự kiện và khái niệm lịch sử học sinh phải nhớ và hiểu. Trong thực tế hiện nay, còn nhiều học sinh học tập một cách thụ động, chỉ đơn thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc mà chưa rèn luyện kỹ năng tư duy. Học sinh chỉ học bài nào biết bài đấy, nhớ các kiến thức lịch sử một cách rời rạc và rất nhanh quên. Ngoài ra, do quan niệm sai lệch về vị trí, chức năng của môn lịch sử trong đời sống xã hội. Một số học sinh và phụ huynh có thái độ xem thường bộ môn lịch sử, coi đó là môn học phụ, môn học thuộc lòng, không cần đầu tư công sức nhiều, dẫn đến hậu quả học sinh không nắm đựơc những sự kiện lịch sử cơ bản, nhớ sai, nhầm lẫn kiến thức lịch sử là hiện tượng khá phổ biến trong thực tế ở nhiều trường. Trong điều kiện hiện nay, việc giảng dạy và học tập bộ môn lịch sử vẫn còn nhiều bất cập như: Chương trình sách giáo khoa khá nặng nề, quá tải về kết cấu các nội dung, về thời lượng của chương trình. Chương trình còn nặng về lí thuyết mà rất ít số tiết thực hành và ôn tập. Trong mỗi bài dạy lại có quá nhiều sự kiện làm cho học sinh ít hứng thú học lịch sử vì khó nhớ , khó thuộc Qua hai năm giảng dạy lịch sử tại trường THCS, bản thân tôi luôn trăn trở để tìm ra những phương pháp giúp học sinh hứng thú học tập bộ môn hơn và đạt kết quả cao hơn . Một trong những phương pháp có hiệu quả tôi đã thực hiện gây hứng thú học tập cho học sinh là sử dụng các sơ đồ để dạy và củng cố bài học. Trên cơ sở đó, bản thân tôi đã chọn đề tài nhỏ về đổi mới phương pháp dạy học: Giúp học sinh học tốt bộ môn Lịch sử ở trường THCS thông qua việc sử dụng các sơ đồ để dạy học II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Thực trạng của vấn đề Trong những năm qua, mặc dù chương trình và sách giáo khoa đã có thay đổi, nhưng lượng kiến thức trong mỗi bài học vẫn rất nhiều. Đa số học sinh không thể nhớ hết sự kiện lịch sử nếu không hiểu bài. Vì thế để có thể giúp học sinh hiểu bài nhanh chóng giáo viên có thể sử dụng các sơ đồ có sẵn trong sách giáo khoa hoặc tự làm để cụ thể hóa các sự kiện lịch sử và hình thành khái niệm lịch sử cho học sinh. Sơ đồ là một loại đồ dùng trực quan quy ước, nếu sử dụng tốt sẽ đem lại hiệu quả cao. 2
  3. 2. Các biện pháp Trong dạy học lịch sử, do không trực tiếp quan sát các sự kiện nên phương pháp trực quan góp phần quan trọng trong việc tạo biểu tượng cho học sinh, cụ thể hóa các sự kiện nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Đồ dùng trực quan có nhiều loại trong đó sơ đồ thuộc loại đồ dùng quy ước. Nhiều bài dạy lịch sử có rất nhiều thông tin và sự kiện học sinh không thể nhớ hết, nhưng GV hệ thống bằng sơ đồ thì bài học sẽ trở nên ngắn gọn và dễ hiểu. Qua thực tế giảng dạy hai năm bản thân xin đưa ra một số kinh nghiệm nhỏ trong việc sử dụng các sơ đồ để dạy học bộ môn lịch sử. Trước tiên, chúng ta phải phân loại sơ đồ trong dạy học lịch sử. Sơ đồ lịch sử với dạng chung là “rẽ nhánh” thì có nhiều loại: + Sơ đồ “đường”: loại này rẽ từ “ô chính” sang các “ô phụ” bằng các đường nối hoặc mũi tên. Sơ đồ này có hai kiểu là: sơ đồ có sẵn trong sách giáo khoa và sơ đồ không có sẵn trong sách giáo khoa. + Sơ đồ tư duy: loại sơ đồ này cũng có ô và các đường nối, nhưng chúng được làm mềm mại bằng các hình bầu dục, các đường nối cong cong (có đậm nhạt khác nhau) và có màu sắc. Loại này được dùng phổ biến trong các bài giảng điện tử của giáo viên khi dự giờ, khi tham dự các hội thi của giáo viên Về cách sử dụng, dù ở loại nào đi chăng nữa thì mỗi sơ đồ đều được sử dụng theo trình tự các bước sau: Bước 1: Học sinh đọc kênh chữ ở sách giáo khoa Bước 2: Cho học sinh hoạt động theo nhóm, dựa trên thông tin của kênh chữ để vẽ sơ đồ theo kênh chữ của sách giáo khoa Bước 3: Đại diện các nhóm vẽ sơ đồ trên bảng và trình bày sơ đồ vừa vẽ bằng ngôn ngữ nói. Bước 4: Học sinh nhận xét, bổ sung hoàn chỉnh phần sơ đồ, giáo viên kết luận, đánh giá hoạt động của học sinh. Bước 5: HS quan sát tự vẽ sơ đồ vào vở. Đó là năm bước cần thực hiện khi dạy học bằng sơ đồ. Tuy nhiên để làm rõ hơn, người viết lưu ý: + Khi thiết kế sơ đồ, cần lưu ý các đề mục của bài. Theo kinh nghiệm giảng dạy của tôi trong 2 năm, thường các bài về vương triều phong kiến (lớp 6, 7) và các chế độ xã hội (tư bản, vô sản ) 3
  4. thì các đề mục được giáo viên khái quát bằng sơ đồ cho học sinh dễ hình dung. Đơn cử kể ra một số đề mục cơ bản mà giáo viên thường dùng sơ đồ: + Chính trị (bộ máy nhà nước) + Kinh tế + Xã hội + Văn hóa + Chiến tranh Mỗi đề mục trên đây lại phân chia thành các đề mục nhỏ hơn. Ví dụ cụ thể là sơ đồ bộ máy nhà nước thời Lý: VUA ĐẠI THẦN QUAN VĂN QUAN VÕ 24 LỘ, PHỦ HUYỆN HƯƠNG, XÃ HƯƠNG, XÃ Để thực hiện được phương pháp sơ đồ hóa trong bài, giáo viên nên đặt câu hỏi dựa trên nội dung của sách giáo khoa. Nhưng giáo viên cũng nên nhận biết được mục nào, phần nào nên lập sơ đồ và ngược lại. Khi đặt câu hỏi có dùng sơ đồ, giáo viên nên đặt câu hỏi chính để thu hút các em vào đọc sách giáo khoa tìm hiểu trước. Lúc đó, giáo viên treo sơ đồ (thường là sơ đồ câm) lên trên bảng như là một gợi ý giúp học sinh định hướng trả lời. Sau khi học sinh đọc sách giáo khoa và nhìn trên sơ đồ (phối hợp kỹ năng đọc và nhìn), giáo viên bắt đầu đặt các câu hỏi gợi mở (trong đó có thể xen vào câu hỏi mang tính tư duy) để học sinh lần lượt trả lời + Sử dụng sơ đồ. Với cách làm truyền thống là giáo viên điền thẳng câu trả lời vào sơ đồ rồi cho cả lớp kẻ sơ đồ đó vào vở, nhưng với hiện nay thì không làm như thế. Giáo viên vừa đặt câu hỏi 4
  5. cho học sinh trả lời. Khi trả lời, học sinh có thể tự lên bẳng điền câu trả lời vào sơ đồ luôn. Như vậy nó kích thích được sự chủ động của học sinh trong học tập. Với lưu ý này, giáo viên có thể làm “cuộc thi tiếp sức”: chia lớp thành các nhóm. Giáo viên đưa ra nhiều câu hỏi, học sinh ở các nhóm sẽ đọc nhanh sách giáo khoa, lấy thông tin và điền lên sơ đồ. Nhóm nào điền nhanh và chính xác thì thắng cuộc. Điền thông tin vào chắc chắn có sai sót. Giáo viên có thể mời bất kỳ một số thành viên trong nhóm sửa chữa sơ đồ trên bảng. Cho cá nhân các nhóm xung phong sửa chữa. Nhóm nào có nhiều người sửa mà đúng nhất (trừ trường hợp có vài sai sót do học sinh không biết thì giáo viên sửa luôn) thì thắng cuộc. + hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ vào vở. Thông thường việc này rất mất thời gian, nên có thể trong khi làm bước 2 thì giáo viên yêu cầu học sinh làm luôn bước 3. Học sinh nhìn và tự vẽ đươc (sơ đồ tư duy phải có hoa tay thì mới đẹp). Trong khi vẽ, giáo viên yêu cầu học sinh tô đậm các ý chính (hay các đề mục chính) buộc học sinh phải ghi nhớ: Mục chính là cái gốc của cây, các mục nhỏ là ngọn cây. Làm chắc gốc thì ngọn mới dài và cao, vươn xa . 3. Một số ví dụ minh họa các kiểu sơ đồ trong bài viết Ở mục này, người viết dùng hai kiểu sơ đồ (tựu chung thì nó có dạng rẽ nhánh) trong một số bài cụ thể: Ví dụ 1 : Khi dạy bài 12: Nước Văn Lang. Giáo viên giảng theo các mục trong bài và thuộc các nhận biết ở trên để phân biệt: mục nào cần dùng sơ đồ, mục nào không cần dùng sơ đồ. Giảng tới mục 3, GV đặt ra câu hỏi và hướng dẫn học sinh lớp 6 trả lời. Trong lúc học sinh suy nghĩ, GV vẽ ra sơ đồ bộ máy nhà nước luôn; đồng thời đặt ra các câu hỏi mở để học sinh tự điền vào sơ đồ (có hướng dẫn). Sau khi hoàn thành, GV có sơ đồ sau: 5
  6. Nhìn vào sơ đồ, học sinh lớp 6 sẽ thấy rõ các thành phần của một nhà nước sơ khai đầu tiên của nước ta: Vua – Quan lại (Lạc hầu, Lạc tướng) – Bồ chính (già làng) và ra kết luận cuối cùng để chốt ý cho cả mục. Khi dạy bài 2- Lịch sử lớp 7 Bài “Sự suy vong của chế dộ phong kiến và sự hình thành chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu” GV giảng đến phần sự hình thành chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu có thể giúp học sinh từ những kênh chữ trong sách giáo khoa vẽ sơ đồ về sự hình thành 2 giai cấp mới trong xã hội phong kiến, sau đó GV kết luận bằng sơ đồ của mình như sau : Chủ xưởng, chủ đồn GIAI CẤP TƯ SẢN điền, thương nhân giàu có. Nông nô và nô lệ da GIAI CẤP VÔ SẢN đen. 6