Sáng kiến kinh nghiệm Vài kinh nghiệm về giải bài tập định lượng môn Vật lý ở trường Trung học cơ sở
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Vài kinh nghiệm về giải bài tập định lượng môn Vật lý ở trường Trung học cơ sở", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_vai_kinh_nghiem_ve_giai_bai_tap_dinh_l.doc
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Vài kinh nghiệm về giải bài tập định lượng môn Vật lý ở trường Trung học cơ sở
- LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này tôi xin chân thành cảm ơn: - Phòng Giáo dục huyện Đăkpơ đã phát động phong trào thi đua viết sáng kiến kinh nghiệm, nhằm khuyến khích chúng tôi những thầy cô giáo – nghiên cứu chuyên môn, tích lũy kinh nghiệm ngày càng làm giàu vốn sống, kinh nghiệm nghề nghiệp để không ngừng nâng cao chất lượng giảng dạy và giáo dục. Ban giám hiệu trường THCS Chu Văn An, bạn bè đồng nghiệp đã nhiệt tình hướng dẫn góp ý cho sáng kiến kinh nghiệm của tôi. Trang 1
- PHẦN MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Nghị Quyết hội nghị ban chấp hành TW Đảng ta lần thứ 2 khóa VIII (Nghị quyết TW 2) đã chỉ rõ mục tiêu giáo dục trong giai đoạn mới : “ Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật, có sức khỏe là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên”. Từ những vấn đề trên Quốc hội khóa X có Nghị quyết số 40, Chính phủ có chỉ thị 14 và Bộ Giáo dục và Đào tạo có Quyết định số 43 nói về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy, hơn nữa môn vật lý mà tôi đang giảng dạy là môn học đòi hỏi kỹ năng thực hành rất cao, sức sáng tạo lớn. Song trong quá trình dạy học ở trường THCS Chu Văn An tôi nhận thấy học sinh còn nhiều hạn chế trong việc vận dụng kiến thức đã học để giải bài tập định lượng môn vật lý, giải bài tập còn rập khuôn, máy móc, chưa chủ động sáng tạo, chưa tự lực giải quyết các nhiệm vụ học tập dưới sự điều khiển của giáo viên, nhiều học sinh chưa có kỹ năng vận dụng toán học để giải bài tập vật lý. Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nói trên, tôi đã nghiên cứu đề tài “Vài kinh nghiệm về giải bài tập định lượng môn vật lý ở trường trung học cơ sở” II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Đối với môn vật lý, đòi hỏi tính tự chủ và tính sáng tạo của học sinh cao, việc giải bài tập vật lý đòi hỏi học sinh phải tóm tắt được dữ liệu của đề bài (Cho gì ? hỏi gì ? cần tìm gì ?) Trong đề bài ẩn chứa các hiện tượng, nội dung, bản chất vật lý nào? Kế hoạch giải ra sao? Chọn công thức, cách giải nào phù hợp? Trên cơ sở đó sẽ giúp học sinh củng cố lại những kiến thức đã học, hiểu sâu sắc bản chất của các hiện tượng vật lý, từ đó giúp học sinh nhớ lâu các kiến thức và biết cách vận dụng vào thực tế. III. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU: 1. Đối tượng nghiên cứu: Hướng dẫn học sinh giải bài tập định lượng môn vật lý lớp 8, 9 theo huớng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. 2. Khách thể nghiên cứu: Trong một tiết học, cần phải bám mục tiêu, nội dung của bài, các định luật, các công thức, ý nghĩa của các đại lượng và đơn vị mỗi đại lượng có mặt Trang 2
- trong công thức để học sinh biết cách áp dụng mỗi công thức vào giải từng bài tập cụ thể. IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: 1. Những cơ sở lý luận khoa học về giải bài tập định lượng: Việc dạy học vật lý không những hình thành cho học sinh những tri thức về các hiện tượng vật lý, kỹ năng và kỹ xảo nhất định mà còn phải đảm bảo tối đa sự phát triển trí tuệ, làm cho hoạt động tư duy của học sinh phát triển tích cực, độc lập, sáng tạo. Việc giúp học sinh nắm được cách giải các bài tập định lượng môn vật lý có vai trò rất quan trọng trong dạy học môn Vật lý. Thông qua hoạt động này giúp rèn luyện kỹ năng tính toán, rèn luyện sự phát triển độc lập, sáng tạo của học sinh. 2. Thực trạng việc giải bài tập vật lý của học sinh: Nghiên cứu điều tra thực trạng của học sinh trong học vật lý chưa chủ động trong giải bài tập, chưa nắm được bản chất của các hiện tượng vật lý, chưa biết cách áp dụng toán học vào giải bài tập vật lý, còn sợ sệt khi cho bài tập về nhà, chưa tự giải bài tập ở nhà làm bài tập ở nhà còn mang tính đối phó với việc kiểm tra của giáo viên. V. PHẠM VI NGHIÊN CỨU: Vì có những hạn chế về nguồn lực và thời gian nên đề tài chỉ giới hạn trong phạm vi các lớp 8, 9 của Trường THCS Chu Văn An – Đakpơ – Gia Lai. VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Để thực hiện đề tài này tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: 1/ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm dạy học. 2/ Phương pháp điều tra, phân tích, so sánh. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp hỗ trợ sau; - Phương pháp trò chuyện với đồng nghiệp, học sinh. - Phương pháp đọc sách và tài liệu tham khảo VII. CƠ SỞ NGHIÊN CỨU: Đề tài nghiên cứu trên cơ sở phục vụ công tác giảng dạy học sinh lớp 8, 9 của trường THCS Chu Văn An – huyện Đakpơ- tỉnh Gia Lai VIII. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1/ Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy lớp 8, 9 môn vật lý 2/ Đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS 3/ Đổi mới phương pháp dạy và giải bài tập vật lý trung học cơ sở 4/ Sách giáo khoa và sách bài tập vật lý lớp 7,8,9 B. NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN: 1. Mục tiêu và ý nghĩa: - Bài tập vật lý giúp học sinh hiểu, khắc sâu thêm phần lý thuyết và đặc biệt giúp học sinh có phương pháp giải bài tập. Biết vận dụng kiến thức vật lý Trang 3
- để giải quyết các nhiệm vụ học tập và những vấn đề thực tế của đời sống là thước đo mức độ hiểu biết, kĩ năng của mỗi học sinh. - Bài tập vật lý giúp học sinh hiểu sâu hơn những qui luật vật lý, những hiện tượng vật lý, tạo điều kiện cho học sinh vận dụng linh hoạt, tự giải quyết những tình huống cụ thể khác nhau, để từ đó hoàn thiện về mặt nhận thức và tích lũy thành vốn riêng của mình. - Muốn làm được bài tập vật lý, học sinh phải biết vận dụng các thao tác tư duy, so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa để xác định được bản chất vật lý, trên cơ sở đó chọn ra các công thức thích hợp cho từng bài tập cụ thể. Vì thế bài tập vật lý còn là phương tiện tốt để phát triển tư duy, óc tưởng tượng, sáng tạo, tính tự lực trong suy luận. - Bài tập vật lý là hình thức củng cố, ôn tập mở rộng hoặc đi sâu vào các trường hợp riêng lẻ của định luật mà nhiều khi nếu nhắc lại nhiều lần ở phần lý thuyết có thể làm cho học sinh nhàm chán. - Khi làm bài tập, học sinh bắt buộc phải nhớ lại kiến thức đã học và vận dụng, đào sâu kiến thức, do vậy đứng về mặt điều kiển hoạt động nhận thức của học sinh thì đây là phương tiện tự kiểm tra kiến thức, kĩ năng của học sinh. Trong việc giải bài tập, nếu học sinh tự giác, say mê tìm tòi thì nó còn có tác dụng rèn luyện cho các em những đức tính tốt như tinh thần tự lập, vượt khó, tính cẩn thận, tính kiên trì, và đặc biệt tạo niềm vui trí tuệ học tập. 2. Phân loại bài tập vật lý: Có nhiều cách phân loại bài tập vật lý, hiện tại chưa có sự phân định rạch ròi, rõ ràng. Người ta thường phân loại theo nội dụng vật lý là bài tập cơ, nhiệt, điện, quang nhưng có nhiều bài tập lại có cả cơ, nhiệt, điện thì ta thường gọi là bài tập tổng hợp, bài tập có nội dung lịch sử, nội dung thực tế , có bài tập lại giống như câu hỏi không có số liệu cụ thể. Tuy nhiên, người ta có thể căn cứ vào dấu hiệu chủ yếu của từng loại, ý nghĩa và vai trò từng loại để xếp thành các loại bài tập sau: 2.1 Bài tập định tính: - Ví dụ: a. Tại sao khi dắt xe lên các bậc thềm cao, ta thường dùng mặt phẳng nghiêng ? b. Tại sao ở các đầu nối các thanh ray phải có các khoảng nhỏ ? 2.2 Bài tập định lượng là loại bài tập có số liệu cụ thể, muốn giải được phải thực hiện một loạt các phép tính. Loại bài tập này giúp học sinh hiểu đầy đủ và sâu sắc hơn ý nghĩa vật lý, rèn luyện kỹ năng tính toán, vẽ hình tiến tới giải các bài tập tổng hợpcó nhiều nội dụng phức tạp hơn. 2.3 Bài tập có nội dung thực tế: Là loại bài tập có liên quan trực tiếp đến đời sống thực tế, kỹ thuật sản xuất, các hiện tường tự nhiện và đặc biệt là thực tế lao động sinh hoạt hàng ngày. Những bài tập này có tác dụng rất lớn về mặt giáo dục kỹ thuật tổng hợp. Ví dụ: a. Tính tiền điện cho mỗi gia đình phải trả hàng tháng, nếu biết khoảng thời gian sử dụng điện mỗi ngày, công suất của từng loại dụng cụ điện. Trang 4
- b. Vẽ sơ đồ một bóng đèn ở cầu tháng sao cho có thể tắt, mở ở hai đầu trên và dưới cầu thang. 2.4 Bài tập thí nghiệm: Là những bài tập khi giải phải tiến hành những thí nghiệm hoặc quan sát kiểm chứng cho lời giải lý thuyết hoặc tìm ra số liệu cụ thể. Bài tập thí nghiệm có tác dụng nâng cao chất lượng học tập, gây hứng thú gắn học với hành, lý thuyết với thực tiễn kích thích tính tích cực, tự lập, rèn luyện trí thông minh sáng tạo. Các bài tập thí nghiệm vật lý phải xây dựng bằng những vật liệu dễ kiếm, rẻ tiền, dễ làm, mức độ chính xác về định lượng cũng vừa phải, phải coi trọng về độ an toàn, tính khoa học. Ví dụ: Hãy dùng các dụng cụ đo đơn giản như thước dây và đồng hồ để xác định vận tốc trung bình của người đi bộ. 2.5 Bài tập vui: Giờ bài tập dễ trở nên khô khan, mệt mỏi gây nhiều ức chế cho học sinh khi phải sử dụng nhiều những số liệu và các phép tính toán. Bài tập vui sẽ giúp học sinh bớt căng thẳng, niềm vui ở các bài tập vật lý phải mang tính trí tuệ cao. Ví dụ: Có một số kẹo sôcôla hình cầu, hình trụ và hình nón được đặt trên ba cái cân như hình vẽ. Những cái kẹo hình giống nhau có khối lượng bằng nhau Hãy nghĩ cách chia số kẹo trên thành hai phần vừa có khối lượng bằng nhau, vừa có số lượng bằng nhau: Ta chuyển hai kẹo hình cầu từ cân A và hai kẹo hình cầu từ cân C sang hai đĩa cân B thì cân B vẫn thăng bằng. Còn lại ở cân A và cân C có tổng số hai kẹo hình trụ và bốn kẹo hình nón, chia đôi cho mỗi đĩa B. 2.6 Bài tập trắc nghiệm: Câu hỏi trắc nghiệm có nhiều phương án lựa chọn để trả lời, do đó có thể đo được những khả năng khác nhau về giá trị nội dung và độ tin cậy cao vì số câu hỏi nhiều hơn trong cùng thời gian làm bài của học sinh. Phương pháp học tập và làm bài trắc nghiệm mang tính khách quan nâng mức biết, mức hiểu, mức áp dụng, mức phân tích, mức tổng hợp lên cao hơn. Phải rèn luyện cho học sinh có thói quen đọc nhanh, làm nhanh. Câu hỏi bài tập tuy ngắn nhưng số liệu câu hỏi lại nhiều, thường hỏi rải khắp chương trình nên phải học hết, học kỹ, không thể học tủ, đoán mò đề thi. Khi làm bài phải lựa chọn phương án trả lời hợp lý nhất, nhanh nhất bài tập trắc nghiệm cũng có nhiều dạng. 2.7 Bài tập tổng hợp: Là loại bài tập có sử dụng tới kiến thức của nhiều chương, ở nhiều lớp hoặc vừa có kiến thức cơ vừa có kiến thức điện loại bài tập này có tính chất hệ thống hóa kiến thức đã học, được dùng nhiều cho các bài tập tổng kết chương, ôn tập, đặc biệt là sử dụng nhiều ở lớp 9 là lớp cuối cấp, đã có đầy đủ kiến thức của các lớp 6,7,8. Những bài này giúp học sinh nhớ Trang 5