Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Lịch sử ở trường THPT

doc 49 trang sangkien 26/08/2022 4701
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Lịch sử ở trường THPT", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_so_do_tu_duy_trong_day_hoc_lic.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Lịch sử ở trường THPT

  1. Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận LỜI CÁM ƠN Xin chân thành cám ơn Phòng Giáo dục Trung học –Thường xuyên, Tổ nghiệp vụ bộ môn Lịch sử Sở GD&ĐT Bình Dương, Ban giám hiệu, Ban chấp hành Công đoàn Trường THPT Dĩ An, Tổ Sử - Địa - Giáo dục công dân, đã trực tiếp giúp đỡ, hướng dẫn và đóng góp những ý kiến chủ đạo cho nội dung đề tài sáng kiến kinh nghiệm nầy. Những nội dung đã học tập và kinh nghiệm tích lũy được từ đề tài “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử ở trường THPT” nầy sẽ là hành trang vô cùng quý báu cho quá trình đổi mới phương pháp dạy học lịch sử của bản thân chúng tôi trong thời gian sắp tới. Dĩ An, ngày 09 tháng 3 năm 2012 Người thực hiện, Nguyễn Chí Thuận 1
  2. Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận “SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC LỊCH S Ở TRƯỜNG THPT” MỤC LỤC ĐẶT VẤN ĐỀ 3 1. Lí do chọn đề tài 3 2. Mức độ nghiên cứu đề tài 8 3. Đối tượng, khách thể, phạm vị nghiên cứu 8 4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài 9 5. Kết cấu của đề tài 12 NỘI DUNG 13 Phần I . Nêu thực trạng của vấn đề 13 1. Thuận lợi 13 2. Khó khăn 14 Phần II . Mô tả và giới thiệu các nội dung, biện pháp chính 15 1. Thực trạng và giải pháp 15 1.1 Giảng dạy sơ đồ tư duy nhằm tăng tính tích cực trong HS 15 1.2 GV trở thành người hướng dẫn hỗ trợ 16 1.3 Những lưu ý HS khi sử dụng sơ đồ tư duy 19 2. Giảng dạy và học tập với công cụ sơ đồ tư duy 20 2.1 Giới thiệu đôi nét về sơ đồ tư duy 20 2.2 Nguyên lý và ứng dụng sơ đồ tư duy trong dạy học 20 2.3 Giới thiệu một số phần mềm để tạo sơ đồ tư duy 22 3 Tiến trình một tiết dạy theo sơ đồ tư duy 24 Phần III. Kết quả và bài học kinh nghiệm và kiến nghị 37 1. Kết quả 37 2. Bài học kinh nghiệm 38 3. Kiến nghị 42 KẾT LUẬN 44 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 47 2
  3. Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài, thuận lợi và khó khăn Từ lâu, dạy học theo kiểu “đọc – chép” được coi là một phương pháp dạy học để truyền tải kiến thức cho học sinh và được sử dụng phổ biến ở nhiều trường trong cả nước. Ngành Giáo dục và Đào tạo cũng đã có nhiều cuộc hội thảo và cũng đã đưa ra nhiều phương pháp dạy học tích cực hơn nhưng hiện tại không ít giáo viên vẫn sử dụng cách dạy học theo kiểu “đọc – chép” Phải nói rằng trong một tiết dạy, cũng có lúc giáo viên cần phải đọc cho học sinh chép như môn chính tả ở bậc Tiểu học, đọc hoặc ghi lên bảng các công thức toán học, bảng cửu chương, một sự kiện lịch sử, một số yếu tố địa lý, đoạn thơ, các khái niệm ở bậc Trung học, điều này không có nghĩa là giáo viên đã sử dụng phương pháp “đọc – chép”. Cũng phải khẳng định rằng, trong giáo học pháp, chưa bao giờ trong trường học có phương pháp dạy học mang tên “đọc – chép”. Do đó, “đọc” thế nào và học sinh “chép” ra sao mới là quan trọng. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ 3
  4. Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận trương chống việc dạy học “chủ yếu qua đọc chép – nhìn chép” nghĩa là chống việc chỉ đọc chép, truyền thụ kiến thức một chiều trong cả một tiết lên lớp. Với cách dạy này, người thầy đã máy móc, rập khuôn trong dạy học, dễ có tư tưởng phó mặc, không hứng thú trong cập nhật kiến thức, không sáng tạo trong việc tìm kiếm các phương án thiết kế bài dạy phù hợp với mọi đối tượng học sinh trong lớp mình phụ trách để kết quả giảng dạy đạt mức tối ưu. Người học theo cách này sẽ trở nên thụ động, chỉ biết thu nhận kiến thức một chiều, không động não suy nghĩ, không biết tự mình chiếm lĩnh tri thức, trở nên thui chột về tư duy, khó vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Hơn nữa, đã dạy theo kiểu “đọc – chép” thì đề thi phải ra theo kiểu học thuộc. Học sinh khi học, chép được điều gì thì lúc thi, lại chép những điều ấy vào bài làm, không có khả năng sáng tạo, học sinh hiểu bài một cách máy móc không sáng tạo, không thể hiện được “cái riêng” của mình hoặc không dám thể hiện “cái riêng” của mình. Bài dạy học đọc – chép tất yếu phải được tổ chức theo phương thức diễn dịch, do đó tiết dạy “đọc – chép” sẽ nhàm chán và mang tính áp đặt. Việc giáo viên sử dụng cách dạy học theo kiểu đọc – chép, có thể kể ra một số nguyên nhân sau: Do một số bài học của chương trình có lượng kiến thức nhiều, trong một tiết học chỉ có 45 phút, mà đã mất 10 đến 15 phút ổn định tổ chức, kiểm tra bài cũ, dặn dò học, làm bài tập ở nhà Như vậy, chỉ còn khoảng 30 phút để giảng bài mới nên giáo viên chọn cách “đọc – chép”. Học sinh hiện nay khả năng tự ghi bài là rất chậm, rất hạn chế, thụ động trong học tập nên cũng có thầy cô chọn cách đọc bài, học trò chép bài. Học sinh về nhà chỉ cần học thuộc nội dung đã được ghi, khi kiểm tra bài chỉ cần đọc đúng, ghi đúng là được điểm cao Cũng còn một số giáo viên không chịu khó đầu tư cho việc thiết kế bài dạy sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh mình đang phụ trách, sợ mất sức, cứ sẵn giáo án mẫu đọc cho học sinh chép, khi cần thỉnh thoảng mới dừng 4
  5. Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận lại ghi vài chữ lên bảng. Như thế, vừa không sợ sai kiến thức cơ bản, lại vừa không tốn sức. Trang thiết bị và các phòng học chức năng không đủ hoặc không có để đáp ứng nhu cầu dạy học theo hướng đổi mới, hiện đại hóa, học sinh không có nhiều điều kiện để thực hành hoặc học theo phương pháp trực quan sinh động. Khắc phục tình trạng đọc – chép là một yêu cầu cần thiết để nâng cao chất lượng dạy học đối với tất cả các môn học. Đó là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn phức tạp trong điều kiện hiện nay của nhiều trường. Thực hiện tốt việc chống dạy học theo kiểu “đọc – chép” là cả một quá trình lâu dài với sự cố gắng của nhiều đối tượng khác nhau trong đó sự tận tâm của thầy cô giáo là điều hết sức quan trọng mới có thể có kết quả. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Chỉ thị bắt đầu từ năm học này (2011 – 2012) chấm dứt việc dạy học chủ yếu qua đọc chép và nhìn chép ở bậc trung học phổ thông. Đây là chủ trương phù hợp với tiến trình đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng sự mong đợi bấy lâu nay của nhiều giáo viên tâm huyết với giáo dục, giúp học sinh chủ động học tập và sáng tạo. Có thể nói, nhiều năm qua việc giáo viên đọc cho học sinh chép bài đã trở thành thói quen của phần lớn thầy – trò bậc phổ thông, kể cả đại học. Nhiều nhà nghiên cứu giáo dục và dư luận lên tiếng không đồng tình, thậm chí phản đối gay gắt và đề nghị chấm dứt việc dạy học theo kiểu đọc chép, nhưng có lẽ do còn nhiều việc phải giải quyết, nên mãi đến năm học này, Bộ Giáo dục và Đào tạo mới có ý kiến chính thức bằng văn bản. Dạy theo kiểu “đọc cái có sẵn cho học sinh chép vào vở” cứ lặp đi lặp lại nhiều năm, khiến công việc của các nhà giáo trở nên nhàm chán, không có động lực để đổi mới. Còn với học sinh, dẫu biết rằng phải chép bài của thầy đọc từ sách giáo khoa, cái mà các em có thể tự đọc – là một sự miễn cưỡng. Nhưng biết làm sao, khi thầy yêu cầu trả bài phải đúng, thậm chí đúng nguyên văn những lời thầy đọc. 5
  6. Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận Đã có những bài thi ngây ngô đến mức khó tin, bởi thiếu phương pháp tư duy, rập khuôn máy móc do việc học lệ thuộc hoàn toàn vào thầy, còn thầy thì lệ thuộc sách giáo khoa. Cách dạy và học này còn tiếp tay cho nạn quay cóp, gian lận trong thi cử, tạo ra sự thiếu công bằng giữa những người học nghiêm túc và những người thầy thực sự muốn đổi mới cách dạy học. Thầy đọc, trò chép trên lớp, cộng với việc học quá tải liên miên khiến các em không đủ thời gian suy ngẫm và tự học, thì lấy đâu ra việc tìm tòi, suy luận để có kiến thức thực sự? Nhưng vấn đề đặt ra, thế nào là thầy không đọc, trò không chép? Không đọc kiến thức đã có sẵn trong sách giáo khoa, thì thầy sẽ nói gì để các em ghi lại và phát triển tư duy? Chỉ thị không đọc – chép trên lớp sẽ thực hiện từ năm học này. Nếu không chuẩn bị kỹ lưỡng với một tinh thần hưởng ứng nhiệt tình, có thể xảy ra tình trạng, giáo viên photo bài giảng và bộ câu hỏi rồi phát cho học sinh tự đọc, tự trả lời để tránh tiếng “thầy đọc, trò chép”. Và cũng không loại trừ xảy ra chuyện, thầy cứ giảng, trò muốn ghi gì cũng được mà không biết đâu là nội dung chính để tập trung học hỏi. Rồi khi thi kiểm tra chất lượng, thầy có chấp nhận nội dung bài thi khác với ý của mình hay không. Đội ngũ giáo viên hiện nay phần lớn cũng được đào tạo bằng phương pháp “đọc – chép” nên để thay đổi cách giảng dạy cũng khó có thể đạt kết quả một sớm một chiều. Trong khi đó, bộ sách giáo khoa bậc phổ thông đang tiếp tục được thay đổi và nội dung còn khá nặng nề cũng là một lực cản trong quá trình nói không với “đọc – chép”. Thực tế những năm qua có nhiều giáo viên (kể cả bậc đại học) đã áp dụng phương pháp giảng dạy không đọc chép cho học sinh, sinh viên và đem lại hiệu quả rõ nét. Nhưng vì không có động lực, thiếu sự khuyến khích, động viên và tiêu chí rõ ràng, nên cách làm này chỉ có tính tự phát ở một số ít người. Chấm dứt tình trạng không đọc chép sẽ trở thành hiện thực nếu đội ngũ giáo viên được coi trọng, nếu đội ngũ giáo viên có động lực và sự đánh giá nghiêm túc, công bằng từ các cơ quan quan quản lý. 6
  7. Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng dạy học hiện đại với sự kết hợp những thành tựu công nghệ thông tin đã và đang diễn ra một cách khá phổ biến ở các ngành học, cấp học. Công nghệ thông tin với tư cách là một phương tiện hỗ trợ cho việc dạy học đang chứng tỏ những ưu thế và hiệu quả trong quá trình dạy học nói chung và đối với bộ môn lịch sử nói riêng. Trong năm học 2007 – 2008 Sở GD&ĐT Bình Dương đã triển khai cho các Trường THCS trong tỉnh thực hiện dạy học theo “Sơ đồ tư duy” và mỗi trường THPT cử một giáo viên dự lớp tập huận đổi mới phương pháp dạy học theo phương pháp mới do Microsoft tài trợ, nhưng hiện nay chưa triển khai đến giáo viên các trường THPT. Đầu năm học 2011 – 2012 Hiệu trưởng Trường THPT Dĩ An Vương Văn Thanh triển khai chỉ thị năm học mới của Bộ GD&ĐT trong đó có nêu lên chỉ thị “chấp dứt hoàn hoàn việc đọc – chép hoặc nhìn – chép ở trường THPT” và thầy Hiệu trưởng có giới thiệu một phương pháp giảng dạy mà từ lâu các nước tiên tiến trên thế giới đã áp dụng trong dạy học đó là sử dụng sơ đồ tư duy và đã cho giáo viên xem một số hình ảnh minh họa các “sơ đồ tư duy” mà học sinh các trường đã thực hiện. Sự việc nầy đã làm tôi liên tưởng đến lớp học của chương trình đổi mới phương pháp dạy học do chương trình Microsoft tài trợ và huấn luyện mà tôi đã tham dự, tôi hỏi thăm một số thầy cô đã được cử đi tập huấn ở Singapor và được biết các trường học ở Singapor cũng đã thực hiện cách dạy nầy rồi. Tôi đến các lớp hỏi thăm học sinh lớp 10 có biết ghi bài bằng sơ đồ tư duy hay không thì các em trả lời ở Trường THCS các em cũng đã được dạy rồi. Từ đó tôi mới tìm hiểu và áp dụng theo phương pháp “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử ở trường THPT” và bài trả lời cho câu hỏi làm thế nào để đổi mới phương pháp dạy học “không đọc – chép ; không nhìn – chép” theo chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo mà tôi trăn trở băn khoăn bấy lâu nay đã có cách để giải quyết Qua một năm học áp dụng cho học sinh lớp 10 và lớp 12 ở Trường THPT Dĩ An do tôi phụ trách ở bộ môn lịch sử, tôi nhận thấy đây là cách dạy 7