Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng đọc cho học sinh Lớp Một
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng đọc cho học sinh Lớp Một", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_ren_ky_nang_doc_cho_hoc_sinh_lop_mot.doc
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng đọc cho học sinh Lớp Một
- PHÒNG GIÁO DỤC ĐT HUYỆN THANH OAI TRƯỜNG TH PHƯƠNG TRUNG I SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM RÈN KỸ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP MỘT Giáo viên: Phạm Thị Nhung Dạy lớp:1 Năm học 2013 - 2014
- I.Đặt vấn đề 1/Tên đề tài Rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1 2/ Lý do chọn đề tài: Khi đất nước bước vào thời kỳ hội nhập để đưa đất nước thoát khỏi tình trang kém phát triển thì giáo dục và đào tạo phải gánh vác một trách nhiệm vô cùng to lớn đó là phải đào tạo cho đất nước một đội ngũ nhân lực hùng hậu để đáp ứng nhu cầu phát triển và hội nhập đó là điều mà tất cả những người làm công tác trong ngành giáo dục nói chung và bản thân tôi nói riêng cũng rất trăn trở và suy nghĩ làm thế nào để nâng cao chất lượng học sinh, giúp các em nắm được kiến thức cơ bản ngay từ đầu lớp Một, giúp các em học tốt và thích học nhất là giúp các em có một nền móng vững chắc trong học tập, bởi lớp Một là nền móng cho sự phát triển của các em sau này ở các lớp kế tiếp, mà người ta thường nói “ Cấp một là nền, lớp một là móng” vì thế móng có chắc thì nền mới vững. Ở lớp Một các em học sinh bắt đầu làm quen với: Nghe, nói,đọc,viết. Và kỹ năng đọc rất quan trọng, nếu kỹ năng đọc được rèn luyện tốt, hình thành tốt ở các em nó sẽ giúp các em đọc tốt suốt cả cuộc đời, giúp các em phát triển tư duy, cảm nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học, hiểu được nghĩa của tiếng, từ mình vừa đọc, hiểu được các lệnh các yêu cầu trong các môn học khác. Mặt khác ở lớp Một các em được tập đọc thành thạo, đọc đúng, đọc trôi chảy thì khi lên các lớp trên các em sẽ học vững vàng, học tốt hơn. Và các em sẽ ham học, tích cực trong học tập hơn nếu kết quả học tập của các em đạt khá - giỏi. Chính vì những lý do trên mà tôi chọn đề tài này để nghiên cứu, tìm tòi ngõ hầu góp một phần nào cho việc rèn luyện kỹ năng đọc cho học sinh lớp Một. 3/Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu -Đối tượng: học sinh lớp 1 của trường tiểu học Phương Trung I -Thời gian: từ tháng 9 – 2013 đến tháng 4 năm 2014. Trang 2
- - Kế hoạch nghiên cứu : + Mục tiêu: Kỹ năng đọc cho học sinh lớp Một rất quan trọng, đó cũng là sự phản hồi của kết quả tiếp thu sau một quá trình học tập của các em. Nó thể hiện kết quả nhận biết các con chữ, các vần, và khả năng ghép chữ cái với nhau thành vần, ghép chữ cái với vần thành tiếng, và khả năng đọc từ, đọc câu sau cùng là đọc được một bài văn ngắn, một đoạn thơ ngắn vv - Học sinh đã nhận được mặt chữ, biết ghép vần, ghép tiếng, ghép từ, đọc câu còn yêu cầu các em phải đọc đúng, đọc chuẩn, đọc chính xác. Vì nếu các em phát âm chuẩn đọc đúng các em sẽ viết đúng, bài chính tả sai ít lỗi, và các em sẽ hiểu được ý của tiếng, từ, câu mà các em viết. + Nội dung: Tôi thường nghiên cứu các giáo trình Phương Pháp Dạy Học Tiếng Việt 1. Các tài liệu liên quan: Sách Giáo Viên, Sách Giáo Khoa, Các Tham Luận dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp Một, Các ấn phẩm: để học tốt, dạy tốt môn tiếng việt lớp Một vv .để dạy các em đọc tốt các bài tập đọc trong sách giáo khoa. II. Giai quyết vấn đề 1/ Khảo sát thực tế a.Lời giới thiệu đặc điểm tình hình trước khi quan sát - Đặc điểm trường - Được sự quan tâm và chỉ đạo tốt của các cấp lãnh đạo về chuyên môn. Tổ chức bồi dưỡng giáo viên, tổ chức những buổi học chuẩn kiến thức kỹ năng cho học sinh tiểu học vv cung cấp đủ tài liệu, phương tiện để nghiên cứu, học hỏi, giảng dạy. - Được sự giúp đõ của Ban Giám Hiệu trường: tổ chức thao giảng, dự giờ hàng tháng, tổ chức những buổi học chuyên đề thảo luận về chuyên môn để rút ra những ý kiến hay, những đề xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng dạy. - Đội ngũ giáo viên trường có tay nghề vững lâu năm trong công tác, có nhiều Trang 3
- kinh nghiệm, có ý thức tốt về trách nhiệm người giáo viên và sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp về chuyên môn cũng như giúp nhau tháo gỡ những khó khăn hay xử lý các trường hợp học sinh cá biệt về học tập cũng như hạnh kiểm. + Đặc điểm lớp : -Ở độ tuổi 6 – 7 của học sinh lớp 1.Các em đa số còn rất ngoan, dễ vâng lời, nghe lời cô giáo, thích học tập và thi đua với các bạn, dễ khích lệ động viên khen thưởng vv . - Có được sự quan tâm về việc học tập của con em mình của một số phụ huynh có ý thức trách nhiệm không khoán trắng cho nhà trường cho giáo viên, à tích cực tiếp tay với giáo viên trong việc học tập của con em mình như: Chuẩn bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập,thường xuyên nhắc nhở và tạo điều kiện tốt cho con em mình đến lớp cũng như học tập ở nhà. b/Tình trạng thực tế khi chưa thực hiện đề tài + Giáo viên: - Tranh ảnh minh họa có sẵn cho môn Tiếng Việt còn hạn chế. Giáo viên còn tự làm thêm đồ dùng dạy học để tạo sinh động cho tiết dạy, nên còn mất thời gian đầu tư. + Học sinh: - Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em phát triển, học tốt, tiếp thu nhanh vẫn còn một số em yếu về thể chất, bé nhỏ hơn so với các bạn bình thường kèm theo phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, chậm tiến. - Còn một phần không ít phụ huynh ở vùng nông thôn sâu, không và chưa quan tâm đúng mức đến việc học tập của con em mình, chưa tạo điều kiện tốt để con em mình đến lớp cũng như nhắc nhở các em học bài, đọc bài ở nhà. - Cá biệt còn có trường hợp học sinh theo cha mẹ làm ăn xa, làm mướn theo thời vụ, nuôi vịt chạy đồng,vv . Đưa cả con đi theo, làm gián đoạn việc học tập của các em trong một thời gian dài: một tuần, nửa tháng gây ảnh hưởng đến độ liên tục của bài học trong chương trình làm mất bài học, hổng kiến thức của học sinh. Trang 4
- c /Số liệu điều tra trước khi thực hiện * Nắm bắt thực trạng, tình hình học sinh qua khảo sát điều tra kiến thức đầu năm - Tìm hiểu để biết rõ số học sinh trong lớp đi học Mẫu Giáo và số học sinh Không đi học Mẫu Giáo, hoặc đi học không đều. Tìm hiểu nguyên nhân, lý do vì sao học sinh đó không đi học Mẫu Giáo. - Kiểm tra sự nắm bắt, nhận diện chữ cái các em đã học ở Mẫu Giáo và kết quả điều tra năm 2013 – 2014 thu được như sau: Tình hình học sinh: lớp Một A sĩ số : 25 học sinh • Học sinh không đi học Mẫu Giáo : 3 em • Học sinh đi học không đều : 9 em • Học sinh đi học đều : 13 em Kết quả khảo sát nhận diện chữ cái: • Học sinh không biết chữ cái nào : 4 em • Biết 5, 6 chữ cái : 8 em • Nhận biết hết : 9 em Như vậy tỉ lệ học sinh nhận diện một cách chắc chắn chính xác bảng chữ cái còn thấp dẫn đến kết quả học tập còn chưa cao. Một trong những lý do dễ thấy là vì các em còn quá nhỏ, chưa ý thức tự giác, cố gắng trong học tập. Vì vậy giáo viên chúng ta phải biết được đặc điểm tình hình của từng đối tượng, khả năng tiếp thu của từng em để phát huy tính tích cực ham học cho học sinh. Tổ chức tiết dạy sao cho các em luôn cảm thấy nhẹ nhàng, vui tươi và các em sẽ thích học. Nhận thức rõ được các khó khăn cơ bản về học sinh tôi đã có những biện pháp cụ thể sau 2/Những biện pháp thực hiện a/ Biệp pháp tác động giáo dục Trang 5
- - Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành họp phụ huynh học sinh đầu năm học: Đề nghị và yêu cầu thống nhất trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng cần thiết phục vụ cho môn học. - Yêu cầu phụ huynh thường xuyên nhắc nhở việc học bài đọc bài ở nhà của con em mình, đồng thời hướng dẫn phụ huynh cơ bản về cách đọc, các phát âm chữ cái, cách đánh vần vần, đánh vần tiếng để phụ huynh nắm rõ cách dạy học hỗ trợ giáo viên kèm cặp con em mình ở nhà. - Tham mưu với nhà trường để giáo viên có đủ tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy học, tự làm thêm tranh ảnh mô hình, sưu tầm thêm những mô hình vật thật để tiết dạy vui, sinh động. Đồng thời mượn đồ dùng học tập, sách giáo khoa cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn. - Xây dựng đôi bạn học giỏi – yếu kèm cặp nhau. - Giáo viên có thể cho học sinh học yếu, đọc yếu để ngồi gần với nột học sinh đọc giỏi. Bạn giỏi sẽ giúp bạn yếu khi chỉ chữ đọc bài, giúp bạn đánh vần, đọc tiếng và giúp bạn trong thao tác cài chữ để ghép vần, ghép tiếng. - Bồi dưỡng, luyện tập cho học sinh sau khi phân loại học sinh ngay từ đầu năm giáo viên nên nắm vững trình độ học sinh trong lớp mình theo các mức giỏi, khá, trung bình, yếu.Đối với các học sinh trung bình yếu. Các em chưa nhìn được mặt chữ cái hoặc chưa biết đủ 24 chữ cái đơn giản, giáo viên nên dành nhiều thời gian để bồi dưỡng cho đối tượng này, ôn và dạy lại 24 chữ cái cơ bản cho các em bắt đầu học lại những nét cơ bản. b/ Phần học các nét cơ bản: Giáo viên nên dạy thật kỹ, thật tỷ mỉ tên gọi và cách viết các nét cơ bản. Để cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét chữ này tôi phân theo cấu tạo các nét có tên gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và so sánh.Dựa vào các nét cơ bản này mà học sinh phân biệt được chữ cái, kể cả những chữ cái có hình dáng cấu tạo giống nhau. Trang 6
- VD: Các nét chữ cơ bản và tên gọi: Nét sổ thẳng Nét ngang Nhóm 1: Nét xiên \ Nét xiên phải / Nét xiên trái Nhóm 2: Nét móc Nét móc trên Nét móc dưới Nét móc hai đầu Nhóm 3: Nét cong Nét cong phải Nét cong trái Nét cong tròn Nhóm 4: Nét khuyết Nét khuyết trên Nét khuyết dưới Nét thắt c/ Phần học âm: Sau khi cho học sinh học thật thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ bản một cách vững vàng thì tiếp theo là phần học chữ cái. Giai đoạn này vô cùng quan trọng. Trẻ có nắm chắc từng chữ cái thì mới có thể ghép các được các chữ cái với nhau để tạo thành vần, thành tiếng, ghép các tiếng đơn lại với nhau tạo thành từ, thành câu. Trang 7
- Lúc này tôi dạy cho các em nhận diện, phân tích từng nét trong từng con chữ cái và nếu chữ cái đó có cùng tên mà lại có nhiều kiểu viết – kiểu in khác nhau hay gặp trong sách báo như chữ a, chữ g thi tôi phân tích cho học sinh hiểu và nhận biết đó cũng là chữ a hay chữ g để khi gặp kiểu chữ đó được in trong sách báo trẻ dễ hiểu, dễ đọc không bị lúng túng. VD: Âm - a, g – + Âm gồm 2 nét: Nét tròn nằm bên trái và nét sổ thẳng nằm bên phải. a cũng có 2 nét : Nét tròn bên trái và nét móc trên bên phải. + Âm gồm 2 nét : Nét tròn và nét cong phải. g gồm 2 nét : Nét tròn và nét móc dưới Từ việc học kỹ cấu tạo âm bởi những nét chữ cơ bản thật kỹ và tỉ mỉ như trên sẽ giúp trẻ phân biệt được sự khác nhau cả về cất tạo và tên gọi của 4 âm sau: VD: + Âm gồm 2 nét: Nét tròn nằm ở bên trái và nét sổ thẳng ở bên phải. Đọc là : “ dờ” + Âm gồm 2 nét: Nét tròn nằm ở bên phải, nét sổ thẳng nằm ở bên trái Đọc là : “bờ”. Sang phần âm ghép ( chữ có hai âm ghép lại với nhau). Tôi cho học sinh sắp xếp các âm có âm h đứng sau thành một nhóm để thấy được sự giống nhau và khác nhau của các âm đó. VD: + Các âm ghép: ch - c nh - n th - t kh - k gh - g ph - p Trang 8