Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy từ vựng trong dạy học môn Tiếng Anh cấp Tiểu học
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy từ vựng trong dạy học môn Tiếng Anh cấp Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_day_tu_vung_trong_day_hoc.doc
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy từ vựng trong dạy học môn Tiếng Anh cấp Tiểu học
- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM SƠ YẾU LÝ LỊCH Họ và tên: Nguyễn Thị Hồng Năm sinh: 1974 Năm vào ngành: 1998 Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thanh Văn Trình độ chuyên môn: Đại học Hệ đào tạo: Từ xa Năm học: 2014 - 2015 1
- 1. Lý do chọn đề tài: Đất nước ta đang trong thời kỳ phát triển lấy nền kinh tế tri thức làm nền tảng cho sự phát triển và coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu và cải tiến chất lượng dạy và học để hoàn thành tốt việc đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực con người cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Để tồn tại và phát triển xây dựng và bảo vệ tổ quốc theo kịp các nước phát triển đòi hỏi chúng ta phải nắm bắt được các thành tựu tiên tiến nhất. Nhằm đưa đất nước Việt Nam trở thành một nước văn minh giàu mạnh. Để đạt được điều này ,đòi hỏi con người phải có sự giao lưu học hỏi bạn bè quốc tế.Muốn vậy chúng ta phải biết ngoại ngữ và sử dụng nó một cách thành thạo .Chính vì vậy mà tôi thấy việc dạy và học ngoại ngữ trong các nhà trường ,đặc biệt là trường tiểu học là nhu cầu thiết yếu và bắt buộc. Một trong các ngoại ngữ đang dạy và học phổ biến ở các trường phổ thông và tiểu học ở Việt nam là Tiếng Anh .Tiếng Anh là môn học quan trọng và là môn thi bắt buộc trong kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông ,từ nhuwngx lý do đó việc giảng dạy Tiếng Anh làm sao đạt hiệu quả cao là vấn đề quan trọng đặt ra trước đội ngũ giáo viên tiếng Anh Bất cứ một ngôn ngữ nào khi giao tiếp chúng ta cần phải có một vốn từ nhất định đẻ trình bày diễn đạt .Mặt khác ,với lứa tuổi học sinh tiểu học việc tiếp thu sâu sắc bản chất của ngôn ngữ còn quá khó .chúng ta chỉ cần các em hiểu và biết được “Tiếng Anh ” là gì?từ ngữ trong Tiếng Anh có nghĩa trong Tiếng Việt là gì?để có được câu hay và hoàn chỉnh đúng ngữ pháp trước hết các em phỉ có nguồn từ vựng phong phú và cách dùng từ như thế nào cho hợp lý.Và làm sao để học và nhớ được từ?Theo kinh nghiệm của bản thân tôi ,Tôi thấy một thực trạng là đa số học sinh còn yếu về phương pháp học tiếng Anh như : -Không nắm được từ vựng nên không hiểu nội dung bài hội thoại -Không nắm từ vựng nên ngại nói bằng Tiếng Anh trong các giờ học Để khắc phục những tình trạng bất cập trên của học sinh Tôi xin nêu ra vài phương pháp mà bản thân tôi đã sử dụng trong quá trình giảng dạy giúp học sinh đạt kết quả tiến bộ hơn trong học tập. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm: 2.1 Khó khăn, thuận lợi, và sự cần thiết của đề tài: a. Thuận lợi: -Môn tiếng Anh là môn mới được áp dụng đối với học sinh tiểu học trong những năm gần đây. Vì vậy một số học sinh cảm thấy có hứng thú, hoặc yêu 2
- thích với môn học còn mới mẻ này, nên mỗi khi lên lớp đa số học sinh rất tích cực. - Được sự quan tâm giúp đỡ của Ban Giám Hiệu nhà trường, cùng các anh chị đồng nghiệp đi trước đã tạo mọi điều kiện để việc dạy và học môn tiếng Anh tốt hơn. Có đầy đủ sách giáo khoa và thiết bị như: băng đài, đĩa, loa, máy chiếu phục vụ cho việc dạy và học. b. Khó khăn: - Theo phân phối chương trình hiện nay, môn tiếng Anh tiểu học mỗi tuần 02 tiết, mà hầu như tiết nào cũng có từ mới trong bài học và kể cả trong bài tập. Nhưng muốn dạy tốt từ vựng để tiết học sinh động hơn, Giáo viên phải làm tranh ảnh, đồ dùng để minh hoạ, tạo điều kiện cho các em nhớ từ dễ dàng và hướng sự chú ý của các em vào chủ đề hay trọng tâm bài học. Bên cạnh đó, các em học sinh ở đây do điều kiện và hoàn cảnh, phụ huynh chưa hiểu rõ được tầm quan trọng của môn tiếng Anh, nên chưa quan tâm, đốc thúc các em học môn học này. Thêm vào đó, do điều kiện phát triển về mọi mặt còn hạn chế, điều kiện để các em học sinh tiểu học được tiếp xúc với các thông tin đại chúng, các chương trình giải trí sử dụng tiếng Anh còn ít. Dẫn đến khả năng giao tiếp của các em còn hạn chế, huống hồ là giao tiếp bằng tiếng Anh - Về phía học sinh, bên cạnh một số em học hành nghiêm túc, có không ít học sinh chỉ học qua loa, không khắc sâu được từ vựng vào trong trí nhớ, không tập đọc, tập viết thường xuyên, không thuộc nghĩa hai chiều. Đến khi giáo viên yêu cầu các em sẽ không thành công. - Về phía học sinh, cũng rất khó khăn trong việc kiểm tra hoặc hướng dẫn các em tự học ở nhà. Bởi vì là môn ngoại ngữ, không phải phụ huynh nào cũng biết. Đây cũng là vấn đề hết sức khó khăn trong quản lý việc học ở nhà của học sinh. - Ngoài ra, cách học từ vựng của học sinh cũng là điều đáng được quan tâm, học sinh thường học từ vựng bằng cách đọc từ bằng tiếng Anh và cố nhớ nghĩa bằng tiếng Việt, có viết trong tập viết cũng là để đối phó với giáo viên, chứ chưa có ý thức tự kiểm tra lại mình, để khắc sâu từ mới và vốn từ sẵn có. Vì thế cho nên, các em rất mau quên và dễ dàng lẫn lộn giữa từ này với từ khác. Do vậy, nhiều học sinh đâm ra chán học và bỏ quên. Cho nên giáo viên cần chú ý đến tâm lý này của học sinh. c. Sự cần thiết của đề tài: *Cơ sở lý luận : Luật Giáo dục – 2005 (điều 5) quy định “phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng 3
- cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.” Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “ Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ – BGDĐT ngày 05/05/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã nêu: “ Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh , phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tế, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh. Để nghiên cứu đề tài ,tôi đã tham khảo quá trình giảng dạy thực tế của bản thân cũng như của đồng nghiệp ;ngoài ra còn dựa vào một số tài liệu chuyên ngành như:Let’s Learn English book ,Work book *Cơ sở thực tiễn: - Bất cứ một thứ tiếng nào trên thế giới, muốn giao tiếp được với nó, đòi hỏi chúng ta phải có một vốn từ. Bởi vì từ vựng là một thành phần không thể thiếu được trong ngôn ngữ, được sử dụng cho hoạt động giao tiếp. Do vậy, việc nắm vững số từ đã học để vận dụng là việc làm rất quan trọng. - Trong tiếng Anh chúng ta không thể rèn luyện và phát triển bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết của học sinh mà không dựa vào nền tảng của từ vựng. Thật vậy nếu không có số vốn từ cần thiết, các em sẽ không nghe được và hệ quả của nó là không nói được, đọc không được và viết cũng không xong, cho dù các em có nắm vững mẫu câu. - Thông qua việc dạy từ vựng cho học sinh, giúp tạo điều kiện cho các em thêm tự tin khi giao tiếp, hay tham gia các hoạt động, trò chơi bằng tiếng Anh. 5.2 Phạm vi áp dụng của đề tài: - Học sinh lớp 4 trường Tiểu Học Thanh Văn. 5.3 Thời gian áp dụng: a. Thời gian áp dụng :Từ tháng 9/ 2014- Tháng 4/2015 - Tháng 9/2014: Nghiên cứu tài liệu có liên quan đến đề tài. - Tháng 10-12/2014: Xây dựng bộ đề khảo sát chất lượng lần thứ nhất; tổ chức khảo sát chất lượng học tập môn Tiếng Anh của học sinh lớp 4. 4
- -Tháng 12/2014: Xây dựng bộ đề khảo sát chất lượng lần thứ hai; tiến hành tổ chức khảo sát chất lượng học tập môn Tiếng Anh của học sinh lớp 4 - Tháng 01/2015: Tiến hành viết đề tài. 5.4 Giải pháp thực hiện: *Quá trình thực hiện: a/. Lựa chọn từ để dạy: Tiếng Anh là một môn học có tầm quan trọng, nó là công cụ để giao tiếp với các nước trên thế giới. Muốn giao tiếp tốt chúng ta phải có vốn từ phong phú. Ở môi trường tiểu học hiện nay, khi nói đến ngữ liệu mới là chủ yếu nói đến ngữ pháp và từ vựng, từ vựng là ngữ pháp luôn có mối quan hệ khăng khít với nhau, luôn được dạy phối hợp để làm rõ nghĩa của nhau. Tuy nhiên việc dạy và giới thiệu từ vựng là vấn đề cụ thể. Thông thường trong một bài học luôn xuất hiện những từ mới, xong không phải từ mới nào cũng cần đưa vào để dạy. Để chọn từ cần dạy, giáo viên cần xem xét những vấn đề: - Từ chủ động (active vocabulary) - Từ bị động (passive vocabulary) Chúng ta đều biết cách dạy hai loại từ này khác nhau. Từ chủ động có liên quan đến bốn kỹ năng (nghe – nói – đọc – viết). Đối với loại từ này giáo viên cần đầu tư thời gian để giới thiệu và cho học sinh tập nhiều hơn. Với từ bị động giáo viên chỉ cần dừng ở mức nhận biết, không cần đầu tư thời gian vào các hoạt động ứng dụng. Giáo viên cần biết lựa chọn và quyết định xem sẽ dạy từ nào như một từ chủ động và từ nào như một từ bị động. - Khi dạy từ mới cần làm rõ ba yếu tố cơ bản của ngôn ngữ là: + Form (dạng từ). + Meaning (ý nghĩa). + Use (cách sử dụng). Đối với từ chủ động ta chỉ cho học sinh biết chữ viết và định nghĩa như từ điển thì chưa đủ, để cho học sinh biết cách dùng chúng trong giao tiếp, giáo viên cần cho học sinh biết cách phát âm, không chỉ từ riêng lẻ, mà còn biết phát âm đúng những từ đó trong chuỗi lời nói, đặc biệt là biết nghĩa của từ. -Số lượng từ cần dạy trong bài tuỳ thuộc vào nội dung bài và trình độ của học sinh. Không bao giờ dạy tất cả các từ mới, vì sẽ không có đủ thời gian thực hiện các hoạt động khác. Tuy nhiên, trong một tiết học chỉ nên dạy tối đa là 6 từ. - Trong khi lựa chọn từ để dạy, bạn nên xem xét đến hai điều kiện sau: + Từ đó có cần thiết cho việc hiểu văn bản không ? + Từ đó có khó so với trình độ học sinh không ? 5
- - Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản và phù hợp với trình độ của học sinh, thì nó thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn phải dạy cho học sinh. - Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản nhưng khó so với trình độ của học sinh, thì nó không thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn nên giải thích rồi cho học sinh hiểu nghĩa từ đó ngay. - Nếu từ đó không cần thiết cho việc hiểu văn bản và cũng không khó lắm thì bạn nên yêu cầu học sinh đoán. b. Các thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới: - Giáo viên có thể dùng một số thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới như: 1. Visual (nhìn): cho học sinh nhìn tranh ảnh, vẽ phác họa cho các em nhìn, giúp giáo viên ngữ nghĩa hoá từ một cách nhanh chóng. Ví dụ: a car ví dụ: a flower Tranh ảnh sẽ thu hút sự chú ý của học sinh trong việc rút ra từ mới đối với những từ khó tìm được vậy thật để dạy hoặc khó mô tả cho học sinh hiểu . Ví dụ :climb Get up Go to shool 2. Mine (điệu bộ): Thể hiện qua nét mặt, điệu bộ. Ví dụ: bored ,Tired ,hungry Ví dụ: (to) jump Teacher looks at watch, makes T. jumps bored face, yawns T. asks: “What am I doing?” T. asks: “How do I feel?” 6