Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp dạy từ vựng môn tiếng Anh ở Tiểu học

doc 11 trang sangkien 27/08/2022 11060
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp dạy từ vựng môn tiếng Anh ở Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_phuong_phap_day_tu_vung_mon_tie.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp dạy từ vựng môn tiếng Anh ở Tiểu học

  1. Một số phương pháp dạy từ vựng Tiếng Anh ở tiểu học SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TÊN ĐỀ TÀI ‘‘ Một số phương pháp dạy từ vựng môn tiếng Anh ở tiểu học ’’ A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài : Chúng ta đang sống trong thế kỷ XXI thế kỷ của nền văn minh hiện đại, thế kỷ của khoa học công nghệ thông tin. Đất nước ta đang trong thời kỳ phát triển lấy nền kinh tế tri thức làm nền tảng cho sự phát triển và coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu và cải tiến chất lượng dạy và học để hoàn thành tốt việc đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực con người cho CNH và HĐH đất nước. Để tồn tại và phát triển xây dựng và bảo vệ tổ quốc theo kịp các nước phát triển đòi hỏi chúng ta phải nắm bắt được các tành tựu tiên tiến nhất. Nhằm đưa đất nước Việt Nam trở thành một nước văn minh giàu mạnh. Bởi vậy hệ thống các môn học trong nhà trường hiện nay là hướng tới những vấn đề cốt lõi thiết thực đó. Bộ môn Tiếng Anh tuy đưa vào phổ biến muộn hơn so với các môn học khác ở nhà trường nói chung và Trường tiểu học Hải Ninh nói riêng, nhưng nó là chìa khóa mở ra kho tàng tri thức nhân loại. Nó là người hướng đạo đưa ta tới với Thế giới bắt tay với bạn bè năm châu, tiếp thu và lĩnh hội những tinh hoa nhân loại. Tuy nhiên việc học Tiếng Anh ở các trường tiểu học nói chung và Trường TH Hải Ninh nói riêng còn gặp nhiều khó khăn đặc biệt là trong việc học và sử dụng từ vựng. V× vËy d¹y cho häc sinh c¸ch häc vµ sö dông TiÕng Anh lµ ®Ó cung cÊp cho häc sinh mét kho tµng tõ ®iÓn sèng vÒ ng«n tõ vµ cÊu tróc c©u, lµ mét yªu cÇu rÊt cÇn thiÕt trong viÖc häc TiÕng Anh ®Æc biÖt lµ víi nh÷ng häc sinh míi lµm quen víi m«n häc TiÕng Anh. Lµm thÕ nµo ®Ó c¸c em cã ®­îc mét vèn từ vựng cÇn thiÕt vµ cã thÓ sö dông ®­îc cÊu tróc cña m×nh mét c¸ch cã hiÖu qu¶ nhÊt. T«i xin ®­a ra mét sè kinh nghiÖm tham kh¶o vÒ viÖc h­íng dÉn häc sinh häc cÊu tróc ng÷ ph¸p mµ t«i ®· tÝch luü ®­îc trong qu¸ tr×nh häc tËp vµ gi¶ng d¹y. §ã lµ lý do ®Ó t«i chän ®Ò tµi nµy. 2/. Đối tượng – phương pháp nghiên cứu : - Học sinh lớp 3 Trường TH Hải Ninh - Phương pháp nghiên cứu tài liệu , dự giờ đồng nghiệp , kiểm tra , đối chiếu , so sánh kết quả của học sinh Người thực hiện: Trần Đình Chung Trường tiểu học Hải Ninh 1
  2. Một số phương pháp dạy từ vựng Tiếng Anh ở tiểu học Tôi đã tìm tòi nghiên cứu các tài liệu, kết hợp dự giờ, thực nghiệm, kiểm tra đối chiếu các kết quả học tập của học sinh, hầu rút ra được phương pháp dạy tốt nhất cho các em. 3/. Đề tài đưa ra giải pháp mới : - Trước khi đi vào những vấn đề cụ thể , chúng ta thống nhất với nhau rằng , phương pháp chủ đạo trong dạy học ngoại ngữ của chúng ta là lồng ghép , nghĩa là từ mới cần được dạy trong ngữ cảnh , ngữ cảnh có thể là một vật thật , tranh ảnh hay một bài hội thoại tuy nhiên , nói đến cùng thì việc dạy và học ngoại ngữ vẫn là việc dạy từ mới như thế nào ?, dạy cấu trúc câu mới như thế nào để học sinh biết cách sử dụng từ mới và cấu trúc mới trong giao tiếp bằng tiếng nước ngoài. Ngay từ đầu , giáo viên cần xem xét các thủ thuật khác nhau cho từng bước xử lý từ vựng trong các ngữ cảnh mới : gợi mở , dạy từ , kiểm tra và củng cố từ vựng. - Có nên dạy tất cả những từ mới không ? dạy bao nhiêu từ trong một tiết thì thừa ? - Dùng sẵn mẫu câu đã học hoặc sắp học để giới thiệu từ mới. - Dùng tranh ảnh , dụng cụ trực quan để giới thiệu từ mới . - Đảm bảo cho học sinh nắm được cấu trúc , vận dụng từ vựng vào cấu trúc để hoàn thiện chức năng giao tiếp . Thiết lập mối quan hệ giữa cấu trúc mới và vốn từ đã có. - Khắc sâu vốn từ trong trí nhớ của học sinh thông qua các mẫu câu và qua những bài tập thực hành. 4. Hiệu quả áp dụng: - Các tiết học trở nên sôi nổi và sinh động hơn. - Học sinh đã thuộc các từ mới ngay tại lớp học. - Vốn từ vựng của các em tăng lên rõ rệt. - Các em học sinh yếu kém có thể sử dụng được từ vựng vào những câu đơn giản. Những học sinh khá có thể sử dụng từ vựng trong những câu phức tạp hơn. 5. Phạm vi áp dụng : - Có thể áp dụng cho các học sinh tiểu học ở trường và các trường tiểu t học trong Huyện Người thực hiện: Trần Đình Chung Trường tiểu học Hải Ninh 2
  3. Một số phương pháp dạy từ vựng Tiếng Anh ở tiểu học B. NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận : Luật Giáo dục – 2005 (điều 5) quy định “phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.” Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “ Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ – BGDĐT ngày 05/05/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã nêu: “ Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh , phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tế, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh. 2. Cơ sở thực tiễn: - Bất cứ một thứ tiếng nào trên thế giới, muốn giao tiếp được với nó, đòi hỏi chúng ta phải có một vốn từ. Bởi vì từ vựng là một thành phần không thể thiếu được trong ngôn ngữ, được sử dụng cho hoạt động giao tiếp. Do vậy, việc nắm vững số từ đã học để vận dụng là việc làm rất quan trọng. - Trong Tiếng anh chúng ta không thể rèn luyện và phát triển bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết của học sinh mà không dựa vào nền tảng của từ vựng. Thật vậy nếu không có số vốn từ cần thiết, các em sẽ không nghe được và hệ quả của nó là không nói được, đọc không được và viết cũng không xong, cho dù các em có nắm vững mẫu câu. 3/. Nội dung vấn đề: a. Thực trạng: - Theo phân phối chương trình hiện nay, môn tiếng Anh tiểu học mỗi tuần 02tiết, mà hầu như tiết nào cũng có từ mới trong bài học và kể cả trong bài tập. Nhưng muốn dạy tốt từ vựng để tiết học sinh động hơn, Giáo viên phải làm tranh ảnh, đồ dùng để minh hoạ, tạo điều kiện cho các em nhớ từ dễ dàng và hướng sự chú ý của các em vào chủ đề hay trọng tâm bài học. - Về sự phân bố tiết trong tuần, có khi một buổi các em phải học hai tiết tiếng Anh liên tiếp, phải tải một số lượng từ rất nhiều. Điều này chắc chắn sẽ Người thực hiện: Trần Đình Chung Trường tiểu học Hải Ninh 3
  4. Một số phương pháp dạy từ vựng Tiếng Anh ở tiểu học gây tâm lý quá tải cho một số học sinh, gây ảnh hưởng rất nhiều đến tiết học sau. - Về phía học sinh, bên cạnh một số em học hành nghiêm túc, có không ít học sinh chỉ học hoa loa, không khắc sâu được từ vựng vào trong trí nhớ, không tập đọc, tập viết thường xuyên, không thuộc nghĩa hai chiều. Đến khi giáo viên yêu cầu các em sẽ không thành công. - Về phía học sinh, cũng rất khó khăn trong việc kiểm tra hoặc hướng dẫn các em tự học ở nhà. Bởi vì vậy là môn ngoại ngữ, không phải phụ huynh nào cũng biết. Đây cũng là vấn đề hết sức khó khăn trong quản lý việc học ở nhà của học sinh. - Ngoài ra, cách học từ vựng của học sinh cũng là điều đáng được quan tâm, học sinh thường học từ vựng bằng cách đọc từ bằng tiếng Anh và cố nhớ nghĩa bằng tiếng Việt, có viết trong tập viết cũng là để đối phó với giáo viên, chứ chưa có ý thức tự kiểm tra lại mình, để khắc sâu từ mới và vốn từ sẵn có. Vì thế cho nên, các em rất mau quên và dễ dàng lẫn lộn giữa từ này với từ khác. Do vậy, nhiều học sinh đâm ra chán học và bỏ quên. Cho nên giáo viên cần chú ý đến tâm lý này của học sinh. b. Định hướng chung của đề tài: Sau khi phân tích những nguyên nhân làm cho học sinh sợ học tiếng Anh, thường xuyên không thuộc bài và việc dạy từ vựng ở trường phổ thông chưa đạt hiệu quả cao. Cụ thể vào đầu năm học khi nhận giảng dạy tiếng Anh tiểu học, sau vài tiết học đầu tiên, tôi cho học sinh lớp 3 làm bài kiểm tra từ vựng, tôi yêu cầu các em nối từ tiếng Anh với nghĩa từ tiếng Việt phù hợp (Matching). Dịch từ sang tiếng Việt, dịch từ sang tiếng Anh. Cuối cùng tôi thu được kết quả như sau : TSHS Nối từ Dịch sang tiếng Việt Dịch sang tiếng Anh 24 20 24 15 Với kết quả như thế, tôi quyết định thử áp dụng một số kinh nghiệm dạy từ vựng của mình qua những năm đứng lớp và suốt những tiết học sau tôi áp dụng những kinh nghiệm của mình được trình bày sau đây, để cuối năm so sánh với kết quả ban đầu. 4. Quá trình thực hiện: a/. Lựa chọn từ để dạy: Tiếng Anh là một môn học có tầm quan trọng, nó là công cụ để giao tiếp với các nước trên thế giới. Muốn giao tiếp tốt chúng ta phải có vốn từ phong phú. Ở môi trường tiểu học hiện nay, khi nói đến ngữ liệu môi là chủ yếu nói đến ngữ pháp và từ vựng, từ vựng là ngữ pháp luôn có mối quan hệ khắng khích với nhau, luôn được dạy phối hợp để làm rõ nghĩa của nhau. Tuy nhiên dạy và giới thiệu từ vựng là vấn đề cụ thể. Thông thường trong một bài học Người thực hiện: Trần Đình Chung Trường tiểu học Hải Ninh 4
  5. Một số phương pháp dạy từ vựng Tiếng Anh ở tiểu học luôn xuất hiện những từ mới, xong không phải từ mới nào cũng cần đưa vào để dạy. Để chọn từ cần dạy, giáo viên cần xem xét những vấn đề: - Từ chủ động (active vocabulary) - Từ bị động (passive vocabulary) Chúng ta đều biết cách dạy hai loại từ này khác nhau. Từ chủ động có liên quan đến bốn kỹ năng (nghe – nói – đọc – viết). Đối với loại từ này giáo viên cần đầu tư thời gian để giới thiệu và cho học sinh tập nhiều hơn. Với từ bị động giáo viên chỉ cần dừng ở mức nhận biết, không cần đầu tư thời gian vào các hoạt động ứng dụng. Giáo viên cần biết lựa chọn và quyết định xem sẽ dạy từ nào như một từ chủ động và từ nào như một từ bị động. - Khi dạy từ mới cần làm rõ ba yếu tố cơ bản của ngôn ngữ là: + Form. + Meaning. + Use. Đối với từ chủ động ta chỉ cho học sinh biết chữ viết và định nghĩa như từ điển thì chưa đủ, để cho học sinh biết cách dùng chúng trong giao tiếp, giáo viên cần cho học sinh biết cách phát âm, không chỉ từ riêng lẻ, mà còn biết phát âm đúng những từ đó trong chuỗi lời nói, đặc biệt là biết nghĩa của từ. -Số lượng từ cần dạy trong bài tuỳ thuộc vào nội dung bài và trình độ của học sinh. Không bao giờ dạy tất cả các từ mới, vì sẽ không có đủ thời gian thực hiện các hoạt động khác. Tuy nhiên, trong một tiết học chỉ nên dạy tối đa là 6 từ. - Trong khi lựa chọn từ để dạy, bạn nên xem xét đến hai điều kiện sau: + Từ đó có cần thiết cho việc hiểu văn bản không ? + Từ đó có khó so với trình độ học sinh không ? - Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản và phù hợp với trình độ của học sinh, thì nó thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn phải dạy cho học sinh. - Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản nhưng khó so với trình độ của học sinh, thì nó không thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn nên giải thích rồi cho học sinh hiểu nghĩa từ đó ngay. - Nếu từ đó không cần thiết cho việc hiểu văn bản và cũng không khó lắm thì bạn nên yêu cầu học sinh đoán. b. Các thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới: giáo viên có thể dùng một số thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới như: 1. Visual (nhìn): cho học sinh nhìn tranh ảnh, vẽ phác hoạ cho các em nhìn, giúp giáo viên ngữ nghĩa hoá từ một cách nhanh chống. e.g. a car e.g. a flower Người thực hiện: Trần Đình Chung Trường tiểu học Hải Ninh 5