Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh Lớp 1 trường PTDTBT Tiểu học Trà Cang
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh Lớp 1 trường PTDTBT Tiểu học Trà Cang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_doc_cho_hoc_sinh.pdf
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh Lớp 1 trường PTDTBT Tiểu học Trà Cang
- 1 CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc BÁO CÁO SÁNG KIẾN MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 1 TRƯỜNG PTDTBT TH TRÀ CANG 1. Mô tả bản chất của sáng kiến: 1.1. Các giải pháp thực hiện, các bước và cách thức thực hiện: - Biện pháp 1: Phân loại đối tượng học sinh, nắm được đặc điểm tâm, sinh lý của học sinh. Tôi tiến hành khảo sát, kiểm tra sự nắm bắt chữ cái các em đã được học ở mẫu giáo từ đó phân loại đối tượng học sinh để có kế hoạch phù hợp. Trên cơ sở nắm bắt thông tin học sinh, trao đổi thông tin với giáo viên mẫu giáo tại điểm trường và học sinh trong lớp. Sau đó lập kế hoạch kèm cập những đối tượng học sinh chậm tiếp thu một cách có hiệu quả nhất. - Biện pháp 2: Hướng dẫn cách phát âm, đánh vần, phân tích vần, tiếng. Đây là biện pháp quan trọng để rèn cho học sinh đọc đúng. Muốn thực hiện tốt giải pháp này, giáo viên phải có những hiểu biết và kinh nghiệm kĩ năng hướng dẫn tốt. - Biện pháp 3: Rèn cách ngắt nghỉ hơi đúng. Trong giờ dạy giáo viên cũng đừng quên nhận xét, tuyên dương, khen ngợi những em đọc tốt để khuyến khích các em đọc tốt hơn nữa ở những tiết học sau. - Biện pháp 4: Rèn kĩ năng đọc hiểu. Để giúp học sinh hiểu được nội dung văn bản đọc, trong quá trình rèn đọc tôi kết hợp giải nghĩa một số từ những trong bài. Sau đó, tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài đọc và trả lời các câu hỏi để học sinh nắm được nội dung và ý nghĩa của bài đọc. - Biện pháp 5: Rèn tính tự giác, tự tin, chủ động, tích cực trong học tập. Rèn nề nếp học tập, thói quen sinh hoạt có giờ giấc. Ngoài việc rèn cho học sinh tự giác đọc ở lớp, tôi còn phối hợp với phụ huynh để học sinh tự đọc ở nhà.
- 2 1.2. Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết: Môn Tiếng Việt ở Tiểu học giúp học sinh hình thành 4 kĩ năng cơ bản đó là đọc, viết, nói và nghe. Đọc là kĩ năng quan trọng, giúp các em học sinh lĩnh hội được ngôn ngữ để sử dụng trong giao tiếp và hoạt động học tập. Nó là điều kiện để cho học sinh có khả năng tự học, cũng là công cụ học tập không chỉ trong nhà trường mà còn trong cuộc sống. Ở lớp 1, kĩ năng đọc rất quan trọng, nếu kĩ năng đọc được rèn luyện tốt, hình thành tốt sẽ giúp các em đọc tốt suốt cả cuộc đời, giúp các em phát triển tư duy, cảm nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học, hiểu được các lệnh, các yêu cầu trong các môn học khác. Mặt khác, ở lớp 1 các em đọc thành thạo, đọc đúng, đọc trôi chảy thì khi lên các lớp trên các em sẽ học vững vàng, học tốt hơn, các em sẽ ham học, tích cực trong các hoạt động học tập. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy nhiều năm lớp 1, qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy việc rèn đọc cho học sinh lớp 1, mà đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số gặp rất nhiều khó khăn. Tình trạng học sinh chưa biết đọc viết còn phổ biến. Mặc khác, năm học 2020-2021 là năm học đầu tiên thực hiện chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 ở lớp 1. Trong chương trình, yêu cầu cần đạt về tốc độ đọc của học sinh khoảng 40 – 60 tiếng trong một phút. Đối với học sinh lớp tôi cũng như học sinh dân tộc thiểu số, để học sinh đạt được yêu cầu đó là rất khó. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 trường PTDTBT TH Trà Cang” . Với mong muốn tìm ra những biện pháp phù hợp để nâng cao hơn nữa hiệu quả rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1. Trong quá trình dạy học, tôi thấy rằng việc rèn đọc học sinh lớp 1/1 có những thuận lợi và khó khăn sau: *Thuận lợi: - Một số em đã biết tất cả các chữ cái khi vào đầu lớp 1. - Thực hiện chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 nên học sinh được trang bị đầy đủ SGK và đồ dùng học tập. - Đa số các em đều ngoan, lễ phép và biết nghe lời thầy cô. - Phần lớn phụ huynh học sinh quan tâm đến việc học của con em.
- 3 *Khó khăn: Bước vào lớp 1 thì hoạt động vui chơi không còn giữ vai trò chủ đạo của trẻ mà dần chuyển sang hoạt động học tập là chính nên các em còn bỡ ngỡ, chưa làm quen được với việc học ở Tiểu học. Một số em còn nhút nhát, rụt rè chưa mạnh dạn trong giao tiếp. Một số em còn nói ngọng, phát âm chưa chuẩn và chưa thực sự chú ý đến lời nói trong giao tiếp hằng ngày. Đa số các em là người dân tộc thiểu số, vốn tiếng Việt của các em còn hạn chế, vốn từ của các em còn quá ít ỏi, việc hiểu nghĩa của từ còn hạn chế. Kĩ năng nói, nghe chưa thực sự tốt. Hệ thống phát âm của một số em chưa hoàn chỉnh. * Khảo sát kết quả đọc của học sinh đầu năm: Tổng số học sinh 14 em Nhận biết được tất cả các chữ cái 6 Nhận biết được một số chữ cái 6 Không nhận biết được chữ cái nào 2 1.3. Nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược điểm hiện tại (nếu là giải pháp cải tiến giải pháp đã biết trước đó tại cơ sở): 1.3.1. Phân loại đối tượng học sinh, nắm được đặc điểm tâm, sinh lý của học sinh Sau khi nhận lớp, ngay từ đầu năm giáo viên phải nắm được tình hình của từng đối tượng học sinh. Đặc biệt, đối với các em học sinh là người dân tộc thiếu số là rất quan trọng. Trong lớp có rất nhiều nhóm đối tượng khác nhau: nhóm đọc thuộc bảng chữ cái, nhóm thuộc một vài chữ cái, nhóm chưa thuộc chữ cái. Tùy mỗi nhóm đối tượng mà tôi lên kế hoạch phụ đạo cho phù hợp. Đối với học sinh ghi nhớ kém, phát âm chưa đúng, tôi xếp học sinh ngồi đầu bàn để tiện việc rèn đọc cho học sinh. Giáo viên cần hướng dẫn các em đọc
- 4 theo hình thức cá nhân; luyện đọc tiếng khó, từ khó nhiều lần để học sinh đọc đúng. Tôi hướng dẫn rèn luyện đọc nhiều lần để các em làm quen với mặt chữ. Bên cạnh việc rèn học sinh đọc chưa tốt, giáo viên rèn cho các em đã đọc được nâng từ mức độ đọc khá lên đọc tốt. Ngoài việc đọc, giáo viên cần phải xây dựng cho học sinh có thói quen tự giác học tập, phát huy tính tích cực trong học tập. Ngoài ra, giáo viên cần nắm được đặc điểm tâm, sinh lí của học sinh để sử dụng những phương pháp dạy học phù hợp giúp học sinh tiếp thu bài một cách tốt nhất. Học sinh lớp 1 là lứa tuổi ngây thơ, các em đang háo hức để được đến trường học hỏi. Các em rất ham hiểu biết, thích bắt chước, vì vậy những gì giáo viên truyền tải các em sẽ chú ý lắng nghe. Cô giáo chủ nhiệm giống như người mẹ thứ hai của các em nên những lời cô nói đôi khi các em còn vâng lời hơn của ba mẹ mình. Nắm được ưu điểm đó, nhiều giáo viên ngay từ đầu năm học đã tập trung việc rèn đọc cho học sinh giúp quá trình dạy và học của cô và trò diễn ra dễ dàng hơn. Tuy nhiên, bước vào lớp 1 thì hoạt động vui chơi không còn giữ vai trò chủ đạo của trẻ mà dần chuyển sang hoạt động học tập là chính. Những hoạt động đó đã làm thay đổi về cơ bản quá trình học tập của trẻ. Hầu hết các trẻ đều thích được thầy cô khen, các em sẽ tự tin và ham học hơn. Do đó, trong quá trình dạy cần mềm mại, thường xuyên động viên, khích lệ các em. 1.3.2. Hướng dẫn cách phát âm, đánh vần, phân tích vần, tiếng Để giúp các em đọc đúng thì đây là biện pháp quan trọng hàng đầu, đòi hỏi người giáo viên phải có những hiểu biết, kinh nghiệm kĩ năng hướng dẫn tốt. Đối với những âm, vần, tiếng dễ nhầm lẫn như: tr/ch; s /x; n/ng; d /gi; b/p, giáo viên cần phải so sánh, phân tích cụ thể cách phát âm (môi - răng - lưỡi, đường dẫn hơi, điểm thoát hơi). Trong lớp tôi nghiên cứu có đa số các em là học sinh người dân tộc thiểu số. Các em thường phát âm chưa đúng ở các tiếng chứa dấu thanh. Vì vậy tôi phân tích các tiếng rồi cho học sinh phân biệt các dấu thanh gắn trên các tiếng đó, sau đó đọc mẫu và hướng dẫn các em cách phát âm đúng, từ đó các em đọc
- 5 theo và giáo viên uốn nắn sửa chữa kịp thời. Giáo viên đưa ra một số tiếng từ chứa dấu thanh học sinh thường đọc chưa đúng và nêu tác hại khi phát âm chưa đúng người nghe sẽ hiểu nghĩa khác đi rồi yêu cầu học sinh luyện đọc đúng theo nhiều hình thức cá nhân, nhóm, đôi bạn cùng đọc cho nhau nghe. Ví dụ: Khi học sinh phát âm tiếng “đáp” thành tiếng “đạp”. Tôi giải thích cho học sinh hiểu “đáp” nghĩa là dùng lời nói để trả lời lại ai đó, nhưng khi đọc thành “đạp” thì lại có nghĩa là thực hiện hành động dùng chân để tác động vào vật thể nào đó. Học sinh sẽ hiểu được tác hại của việc đọc sai dấu thanh. Sau đó tôi phát âm lại cho học sinh phát âm theo và yêu cầu học sinh luyện đọc theo nhóm đôi. *Về phần âm: Đa số học sinh tôi dạy đều phát âm theo phương ngữ miền Bắc, do đó giáo viên phải tìm hiểu cách phát âm phù hợp theo đặc trưng vùng miền. Giáo viên phải phát âm chuẩn để học sinh phát âm theo. Chỉ phát âm một lần, nhưng phải rõ ràng, chính xác. Đối với các em còn chậm, cần quan tâm chú trọng đến các em nhiều hơn. Hướng dẫn học sinh luyện đọc lại từ ngữ phát âm sai ngay lúc đó nhiều lần. Khi học sinh phát âm sai giáo viên phát âm lại và yêu cầu những em sai thực hiện theo yêu cầu. *Ví dụ: - Hướng dẫn học sinh cong lưỡi để phát âm “l” - Ép đầu lưỡi vào hàm ếch trên để phát âm : “ n” - Rung lưỡi để phát âm “ r” - Khép miệng, giữ hơi để bật mạnh ra âm : “p” - l: Đọc cong lưỡi, đầu lưỡi uốn vào trong và đưa sát vào lợi trên. - n: Đọc thẳng lưỡi, lưỡi sát với lưỡi dưới. Hướng dẫn học sinh phát âm âm “d” và “gi”: + Khi phát âm âm d: đầu lưỡi hơi thụt vào trong, bật đầu lưỡi cho hơi thoát ra mạnh, dứt khoát.
- 6 + Khi phát âm âm gi: đầu lưỡi gần chạm chân răng, lưỡi hơi ép sát lợi trên, cho hơi thoát ra đường mũi, sau đó mở miệng cho hơi thoát ra trên mặt lưỡi, luồng hơi có thể kéo dài. Hướng dẫn cách phát âm âm “tr và ch”; “s và x”. + Khi phát âm âm tr, s: phần đầu lưỡi chạm vào hàm trên, lưỡi uốn lên. + Khi phát âm âm ch, x: phần lưỡi không uốn lên, phần đầu lưỡi chạm vào chân răng. Giáo viên làm mẫu chậm, yêu cầu học sinh phải quan sát kĩ để phát âm theo. * Về phần vần, tiếng: Để học tốt phần vần, tiếng các em phải nắm chắc cơ chế đánh vần, phân tích vần, tiếng. Đối với những học sinh chậm tiến nếu các em không đọc được, thì chúng ta cần chia nhỏ ra nữa. Ví dụ : Dạy bài “an – ăn – ân” – SGK Tiếng Việt 1, tập 1 bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” như sau: + GV giới thiệu vần an, ăn, ân. + GV yêu cầu HS so sánh vần ăn, ân với an để tìm ra điểm giống và khác nhau. (Gợi ý: Giống nhau là đều có n đứng sau, khác nhau ở chữ đứng trước: a, ă, â). + GV nhắc lại điểm giống và khác nhau giữa các vần. + GV đánh vần mẫu các vẫn an, ăn, ân. GV chú ý hướng dẫn HS quan sát khẩu hình, tránh phát âm sai. + GV yêu cầu HS nối tiếp nhau đánh vần. Mỗi HS đánh vần cả 3 vần. + GV yêu cầu lớp đánh vần đồng thanh 3 vần một lần. - Đọc trơn các vần: + GV yêu cầu một số HS nối tiếp nhau đọc trơn vần. Mỗi HS đọc trơn cả 3 vần. + Lớp đọc trơn đồng thanh 3 vần một lần. - Ghép chữ cái tạo vần: + GV yêu cầu HS tìm chữ cái trong bộ thẻ chữ để ghép thành vần an.