Sáng kiến kinh nghiệm Làm thế nào để học sinh khắc sâu kiến thức Hóa học ở THCS bằng bản đồ tư duy?

doc 15 trang sangkien 27/08/2022 10620
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Làm thế nào để học sinh khắc sâu kiến thức Hóa học ở THCS bằng bản đồ tư duy?", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_lam_the_nao_de_hoc_sinh_khac_sau_kien.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Làm thế nào để học sinh khắc sâu kiến thức Hóa học ở THCS bằng bản đồ tư duy?

  1. 1 A - PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài - Trong việc đẩy mạnh quá trình Công nghiệp hóa – hiện đại hóa như hiện nay ở nước ta thì việc thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển đất nước. Bên cạnh đó nền giáo dục quốc dân cũng cần có những thay đổi phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội như hiện nay. - Theo đó, để nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo thì việc đổi mới phương pháp dạy học đang là vấn đề thời sự đặt ra hàng đầu đối với hoạt động dạy và học trong giai đoạn hiện nay. Một trong các nội dung quan trọng của vấn đề này là cải tiến cấu trúc bài lên lớp. - Trong các dạng bài lên lớp ở bộ môn Hóa học thì Bài Luyện tập và Ôn tập là một dạng bài khó, yêu cầu đạt được trong một tiết luyện tập là vừa phải củng cố, hệ thống kiến thức của chương vừa phải cho học sinh vận dụng kiến thức vào việc giải bài tập để rèn luyện kĩ năng. Học sinh học tiết Luyện tập đặc biệt là phần hệ thống kiến thức cũ sẽ nhàm chán nếu giáo viên chỉ áp dụng phương pháp dạy học thông thường như hỏi đáp để học sinh nhắc lại kiến thức. - Vậy thì làm thế nào để có thể vừa khắc sâu kiến thức đã học vừa tạo được cho học sinh hứng thú khi học một số bài và đặc biệt là các tiết Luyện tập – Ôn tập? - Để giải quyết vấn đề trên, trong quá trình dạy học tôi đã nghiên cứu và chọn đề tài: “Làm thế nào để học sinh khắc sâu kiến thức hóa học ở THCS bằng bản đồ tư duy ? ” với mục đích tạo cho học sinh hứng thú học tập, chủ động trong việc chiếm lĩnh, khắc sâu kiến thức và vận dụng kiến thức. Vì bản đồ tư duy là điểm tựa cho sự lĩnh hội và tái hiện nội dung kiến thức, là công cụ để nâng cao chất lượng học tập và có thể áp dụng một cách có hiệu quả trong việc dạy một số bài và các tiết Luyện tập – Ôn tập. II. Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu sơ lược về bản đồ tư duy và cách trình bày bản đồ tư duy. - Đưa ra một số bài có vận dụng bản đồ tư duy trong dạy học. GV: Bùi Văn Ngoãn – Trường THCS Thường Phước 2
  2. 2 III. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhiệm vụ của đề tài này nhằm giải quyết một số vấn đề cơ bản sau: - Những cơ sở lí luận và thực tiễn về việc vận dụng bản đồ tư duy trong dạy học. - Nêu lên được các bước cần thiết khi áp dụng bản đồ tư duy trong dạy Hóa học. - Đưa ra một số bản đồ tư duy minh họa một số bài ở các tiết Luyện tập – Ôn tập. IV. Phương pháp nghiên cứu Căn cứ vào mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, tôi sử dụng chủ yếu các phương pháp như: Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp điều tra nghiên cứu. V. Giới hạn của đề tài Do hạn chế về thời gian và nguồn lực nên về mặt không gian thì chỉ áp dụng chủ yếu ở một số bài mà chủ yếu là các tiết Luyện tập – Ôn tập. GV: Bùi Văn Ngoãn – Trường THCS Thường Phước 2
  3. 3 B - PHẦN NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận I.1. Tìm hiểu sơ lược về bản đồ tư duy - Bản đồ tư duy (BĐTD) còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy, là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức, bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một chủ đề nhưng mỗi người có thể “thể hiện” nó dưới dạng BĐTD theo một cách riêng, do đó việc lập BĐTD phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người. - BĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các nhánh). Có thể vận dụng BĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương, mỗi học kì I.2. Vai trò của BĐTD trong dạy học - BĐTD giúp học sinh học được phương pháp học tập chủ động, tích cực. - BĐTD giúp học sinh học tập tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. Việc HS vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của học sinh, các em được tự do chọn màu sắc ( xanh, đỏ, tím, vàng ), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong ), các em tự “ sáng tác” nên trên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh và BĐTD do các em tự thiết kế nên các em sẽ yêu quý, trân trọng “ tác phẩm” của mình. - BĐTD giúp HS ghi chép rất hiệu quả. Do đặc điểm của BĐTD nên người thiết kế BĐTD phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp bố cục để ghi thông tin cần thiết nhất và lôgic. Vì vậy, sử dụng BĐTD sẽ giúp HS dần dần hình thành cách ghi chép hiệu quả. GV: Bùi Văn Ngoãn – Trường THCS Thường Phước 2
  4. 4 I.3. Một số hoạt động dạy học trên lớp với BĐTD - Trong quá trình dạy học Hóa học, tôi có thể áp dụng một số hoạt động dạy học trên lớp với BĐTD như sau: Hoạt động 1: HS lập BĐTD theo nhóm hay cá nhân với gợi ý của GV. Hoạt động 2: HS hoặc đại diện của các nhóm HS lên báo cáo, thuyết minh về BĐTD mà nhóm mình đã thiết lập. Hoạt động 3: HS thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện BĐTD về kiến thức của bài học đó. GV sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp HS hoàn chỉnh BĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học. Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một BĐTD mà GV đã chuẩn bị sẵn hoặc một BĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho HS lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó. - Có thể tóm lược tổ chức hoạt động dạy học với BĐTD như sau: GV: Bùi Văn Ngoãn – Trường THCS Thường Phước 2
  5. 5 II. Cơ sở thực tiễn và thực trạng của vấn đề - Hóa học là một môn học mới (Học sinh chỉ mới được bắt đầu học ở lớp 8), là một môn học khó, đòi hỏi tính tư duy trừu tượng (Đặc biệt là chương trình Hóa học lớp 8 Học sinh mới được tiếp xúc lại phải gặp những khái niệm rất trừu tượng). - Ngoài ra, các kiến thức Hóa học của các bài học có mối quan hệ liên quan mật thiết với nhau. Các kiến thức của bài trước là nền tảng để tiếp thu những kiến thức của các bài sau, kiến thức của các bài sau lại có vai trò bổ sung, hoàn thiện cho các kiến thức của bài trước. Mặt khác, đây lại là môn học khoa học tự nhiên có liên quan nhiều tới tính toán. Vì thế, nếu học sinh không hiểu bài thì không nắm chắc kiến thức qua mỗi bài dạy thì sẽ thấy môn học là khó và không có hứng thú với môn học nữa và sẽ chán môn học. Do đó, việc sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học, sẽ giúp học sinh học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. GV: Bùi Văn Ngoãn – Trường THCS Thường Phước 2
  6. 6 III. Các biện pháp giải quyết vấn đề III.1. Các bước cần thực hiện để dạy một số bài Luyện tập – Ôn tập Hóa 8,9 - Do những tiết Luyện tập – Ôn tập thường là tiết tổng hợp, hệ thống lại các kiến thức đã được học để HS có cái nhìn tổng quát nhất về mối liên hệ giữa các bài với nhau. Vì vậy, khi dạy những bài học như thế này nên tổ chức cho HS hoạt động nhóm lập BĐTD với tên chủ đề chính là tên của chương mà chúng ta học để HS thiết lập BĐTD. Qua đó, tự xây dựng kiến thức có liên quan đến chương, việc làm này sẽ phát huy được tính tích cực của HS, nâng cao hiệu quả giờ học. Có thể tổ chức một số hoạt động sau đây: +Hoạt động 1: Lập BĐTD. Mở đầu bài học, GV có thể cho HS lập BĐTD theo nhóm hay cá nhân với các gợi ý mà giáo viên đã chuẩn bị trước để dán lên bảng, dựa vào trọng tâm của chương đó các em HS phát triển BĐTD theo ý kiến của từng thành viên trong nhóm theo cách hiểu của các em, +Hoạt động 2: Báo cáo, thuyết minh về BĐTD. Cho một vài HS hoặc đại diện của các nhóm HS lên báo cáo, thuyết minh về BĐTD mà nhóm mình đã thiết lập. Qua hoạt động này vừa biết rõ việc hiểu kiến thức của các em vừa là một cách rèn cho các em khả năng thuyết trình trước đông người, giúp các em tự tin hơn, mạnh dạn hơn, đây cũng là một trong những điểm cần rèn luyện của học sinh nước ta hiện nay. +Hoạt động 3: Thảo luận, chỉnh sửa, hoàn thiện BĐTD. Tổ chức cho HS thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện BĐTD về kiến thức liên quan đến chương đó. GV sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp HS hoàn chỉnh BĐTD về kiến thức chương đó. Từ đó dẫn dắt đến kiến thức trọng tâm của bài học. +Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một BĐTD. GV cho HS lên trình bày, thuyết minh về kiến thức của chương ôn tập thông qua một BĐTD do GV đã chuẩn bị sẵn (vẽ ở bảng phụ hoặc ở bìa), hoặc BĐTD mà các em vừa thiết kế và cả lớp đã chỉnh sửa, hoàn thiện. GV có thể giới thiệu BĐTD sau đây (vì BĐTD là một sơ đồ mở nên không yêu cầu GV: Bùi Văn Ngoãn – Trường THCS Thường Phước 2
  7. 7 tất cả các nhóm HS có chung 1 kiểu BĐTD, GV chỉ nên chỉnh sửa cho HS về mặt kiến thức và góp ý thêm về đường nét vẽ và hình thức- nếu cần). III.2. BĐTD minh họa cho một số bài về Hóa 8,9 III.2.1. Giáo viên sử dụng BĐTD để dạy bài mới: Giáo viên đưa ra một từ khoá để nêu kiến thức của bài mới rồi yêu cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi, gợi ý cho các em để các em tìm ra các từ liên quan đến từ khoá đó và hoàn thiện BĐTD. Qua BĐTD đó HS sẽ nắm được kiến thức bài học một cách dễ dàng. * BÀI 31: TÍNH CHẤT - ỨNG DỤNG CỦA HIĐRO (HÓA 8) GV: Bùi Văn Ngoãn – Trường THCS Thường Phước 2
  8. 8 * BÀI 26: CLO (HÓA 9) III.2.2. Giáo viên sử dụng BĐTD để hệ thống kiến thức mỗi chương: Dùng BĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học và hệ thống kiến thức sau mỗi chương, phần : Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ BĐTD. Mỗi bài học được vẽ kiến thức trên một trang giấy rời rồi kẹp lại thành tập. Việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách nhanh chóng, dễ dàng. GV: Bùi Văn Ngoãn – Trường THCS Thường Phước 2
  9. 9 *BÀI 13: LUYỆN TẬP CHƯƠNG I: CÁC LOẠI HỢP CHẤT VÔ CƠ (HÓA 9) GV: Bùi Văn Ngoãn – Trường THCS Thường Phước 2
  10. 10 *BÀI 8: BÀI LUYỆN TẬP 1 (HÓA 8) GV: Bùi Văn Ngoãn – Trường THCS Thường Phước 2
  11. 11 IV. Hiệu quả áp dụng Sau một thời gian ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học môn Hóa học nói riêng ở Trường THCS Thường Phước 2 đã bước đầu có những kết quả khả quan. Tôi đã nhận thức được vai trò tích cực của ứng dụng BĐTD trong hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học. Nhiều giáo viên đã biết sử dụng BĐTD để dạy bài mới, củng cố kiến thức bài học, tổng hợp kiến thức chương, phần. Học sinh hiểu bài nhanh hơn, hiệu quả hơn, đa số các em HS khá, giỏi đã biết sử dụng BĐTD để ghi chép bài, tổng hợp kiến thức môn học. Một số HS trung bình đã biết dùng BĐTD để củng cố kiến thức bài học ở mức đơn giản. GV: Bùi Văn Ngoãn – Trường THCS Thường Phước 2