Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục học sinh cá biệt

doc 15 trang sangkien 30/08/2022 4940
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục học sinh cá biệt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_giao_duc_hoc_sinh_ca_biet.doc
  • docBìa.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục học sinh cá biệt

  1. Giáo dục học sinh cá biệt A. Mở đầu I. Lý do chọn đề tài: Tiếp cận xu thế giáo dục thế kỷ XXI là nhiệm vụ cấp bách, to lớn của nền giáo dục ở mọi quốc gia. THCS cùng với tiểu học là cấp học nền tảng, đặt cơ sở cho việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của con người. Vì vậy, việc giáo dục học sinh cá biệt học yếu, chưa ngoan là một điều tất yếu. Đã có một thời gian trong ngành giáo dục và cụ thể là đứng trên bục giảng, tham gia công tác Đội trường học, tôi tự rút ra cho mình một số kinh nghiệm từ những trải nghiệm trong quá trình thực hiện thiên chức của mình: dạy học, tôi đã có điều kiện lẫn cơ hội giáo dục nhiều đối tượng khác nhau. Có em rất ngoan nhưng cũng có em chưa được ngoan. Thậm chí, có em được xếp vào diện “học sinh cá biệt”. Tôi đã có một vài sáng kiến và cũng đã ứng dụng, xoay quanh nội dung “làm sao phải rèn luyện ở học sinh THCS là những người học sinh chuẩn, từ học sinh chưa ngoan trở thành học sinh ngoan, từ học sinh lười trở thành học sinh có ý thức trong học tập” để làm nền tảng cho học sinh khi lên THPT. Với tôi, đây là một công việc hết sức công phu, đòi hỏi sự nhẫn nại và luôn cần yếu tố thời gian. Bằng những gì đã làm được cùng với kết quả của nó, tôi mạo muội trình bày vài suy nghĩ và những biện pháp nhằm giảm hiện tượng học sinh hư, lưu ban hay bỏ học. II. Nhiệm vụ nghiên cứu: Phân tích thực trạng đạo đức học sinh ở lứa tuổi THCS trong giai đoạn hiện nay. Đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao nề nếp, giáo dục đạo đức cho học sinh, giảm số học sinh hư, học sinh “cá biệt”. Người thực hiện: Võ Văn Hảo – GV THCS Nghi Mỹ 1
  2. Giáo dục học sinh cá biệt III. Mục đích nghiên cứu: Nhằm đánh giá thực trạng đạo đức học sinh ở trường THCS Nghi Mỹ. Phần chủ yếu phải nêu được giải pháp nhằm nâng cao nề nếp, giáo dục đạo đức cho học sinh, giảm số học sinh hư, học sinh “cá biệt”. Từ các giải pháp, đúc rút những bài học kinh nghiệm nhằm thường xuyên quan tâm, giáo dục đạo đức cho học sinh. IV. Vấn đề nghiên cứu: Các biện pháp giáo dục học sinh “cá biệt”. V. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu hoạt động của giáo viên tác động lên học sinh “cá biệt” trong trường nhằm giảm số học sinh hư, học sinh “cá biệt” VI. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tâm lý, thực trạng, nguyên nhân của học sinh “cá biệt”. Nghiên cứu thực tiễn trường trung học cơ sở Nghi Mỹ – Nghi Lộc. Phương pháp phân tích tổng hợp lý thuyết để xác định cơ sở lý luận của đề tài. Phương pháp phân tích thực tiễn để rút kinh nghiệm trong công tác giáo dục học sinh “cá biệt”. Người thực hiện: Võ Văn Hảo – GV THCS Nghi Mỹ 2
  3. Giáo dục học sinh cá biệt B. Nội dung I. Thực trạng. Theo những thông tin mới nhất từ các cơ quan kiểm sát ở Trung ương Hà Nội, mặc dù Nhà nước và các cơ quan tư pháp đã tăng cường công tác phòng ngừa, giáo dục trẻ em vi phạm pháp luật, bảo vệ lợi ích của xã hội và nhân dân nhưng các tệ nạn xã hội và các vụ phạm pháp vẫn chưa giảm thậm chí còn gia tăng ở lứa tuổi học đường. Đặc biệt là tệ nạn buôn bán, sử dụng ma tuý lan tràn cả vào trường học. Vào hè học sinh có nhiều thời gian để nghi ngơi, giải trí nên nguy cơ sa vào ảnh hưởng của các tệ nạn xã hội đó lại càng nhiều hơn. Trên địa bàn Nghi Mỹ, cùng với sự phát triển của xã hội nhiều trò chơi giải trí mới lạ mọc lên như: Game online, bi – a, thu hút một lượng lớn học sinh tham gia. Điều này kéo theo các hiện tượng như: lừa dối bố mẹ để xin tiền, ăn cắp vặt, Đến trường, những em này thường lơ là việc học tập, luôn tỏ ra là “sành điệu” và thích làm “đại ca”, Đối với công tác giáo dục, thực trạng trên gây ra những băng hoại về đạo đức và đời sống, phá hoại mọi tác dụng và hiệu quả của giáo dục. Nếu không ngăn chặn, xoá bỏ được thì hậu quả rất nghiêm trọng bởi vì nó tạo ra những tiền đề cho các ảnh hưởng xấu từ bên ngoài dội vào, tạo nên những lệch lạc trong một số học sinh, các em trở thành học sinh “cá biệt”. II. Nguyên nhân. “Học sinh cá biệt”: do đâu? Thực trạng những mặt xấu của xã hội; sự thiếu quan tâm của gia đình; những éo le trong cuộc sống gia đình ảnh hưởng rất lớn đến sự hư đốn. Hay nói một cách khác là đạo đức học sinh yếu kém. Người thực hiện: Võ Văn Hảo – GV THCS Nghi Mỹ 3
  4. Giáo dục học sinh cá biệt Tình huống này, vai trò người thầy rất quan trọng trong việc rèn luyện giáo dục các em chưa ngoan trở thành học sinh ngoan. Tác động của thầy cộng hưởng với năng lực tự học, tự rèn luyện của trò tạo ra chất lượng hiệu quả cao. ở trung học cơ sở, điều đáng lo ngại cho giáo viên là tỉ lệ học sinh chưa tốt về mặt đạo đức tương đối cao, tỉ lệ này không giảm mà tăng hàng năm. Theo tôi, có nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân là ý thức và suy nghĩ của các em còn non nớt. Tôi cho rằng, các em làm việc gì đó nếu có sai trái xuất phát có thể do bản năng hoặc bệnh a dua nên khi làm không lường được hậu quả việc làm sai trái của mình Các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này từ trước tới nay cho phép chúng ta phân tích khái quát và rút ra những nguyên nhân chung sau đây: 1. Nguyên nhân xã hội: Thật ra, dù từ nguyên nhân nào đi nữa thì suy cho cùng đều mang tính xã hội. Vậy nguyên nhân có tính bao trùm tất cả các nguyên nhân khác. Ví như nếu trẻ sống trong một khu vực dân cư có nhiều tệ nạn xã hội – thậm chí ngay trong môi trường gia đình trẻ phải tiếp xúc hàng ngày, phải sống và hoạt động – thế là các em bị tiêm nhiễm, bị ảnh hưởng. Nói rõ hơn, môi trường xã hội gần gũi nhất luôn luôn để lại ấn tượng, ảnh hưởng sâu đậm nhất đối với trẻ. Vậy là trách nhiệm trực tiếp không phải là đứa trẻ mà thuộc về các cơ quan xã hội, các tổ chức đoàn thể, các cộng đồng dân cư: đã không đấu tranh ngăn chặn các tệ nạn, để ảnh hưởng tiêu cực đến tâm tư, tình cảm, tình cảm, lối sống của trẻ, để các em buộc phải sống trong môi trường phức tạp, phi đạo đức. Những vụ việc tham nhũng, những vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản là những tấm gương xấu làm đổ vỡ niềm tin của trẻ (dù đó chỉ là một bộ phận nhỏ trẻ thoái hoá). 2. Nguyên nhân tâm lý: Nếu không kịp thời giải quyết sự không phù hợp giữa trình độ phát triển của học sinh với chuẩn mực được thiết kế trong mục tiêu giáo dục và khuôn phép của Người thực hiện: Võ Văn Hảo – GV THCS Nghi Mỹ 4
  5. Giáo dục học sinh cá biệt gia đình cũng tạo ra các tiền đề làm xuất hiện hiện tượng học sinh “cá biệt”. Theo thống kê cho thấy 80% học sinh loại này là các em chậm tiến, thua kém các bạn cùng lớp, cùng trang lứa về trí tuệ, về kĩ năng học tập, về tu dưỡng. Thế nhưng kinh nghiệm của các em về cuộc sống đời thường lại phát triển sớm hơm, phong phú hơn học sinh bình thường. Đặc biệt là các em thường có sức khoẻ hơn và ở đâu các em cũng muốn biểu lộ “sức mạnh”, “sự trưởng thành” của mình. Do đó, các em có những nhu cầu không bình thường, những hứng thú không lành mạnh, nhất là các em thường lựa chọn lối sống khác người mà gia đình và nhà trường không sao chịu đựng được. Và các em chống đối, phản đối một cách vô ý thức. Rồi những học sinh hư đốn nhất sẽ bị đuổi ra khỏi trường lớp, và sau khi làm như vậy nhà trường cảm thấy yên tâm hơn, tập thể được “trong sạch”, ít bị “ô nhiễm”, lây lan hơn. Đó chỉ là cách làm đơn giản nhưng nếu vấn đề không được giải quyết triệt để sẽ vẫn ảnh hưởng đến việc giáo dục học sinh “cá biệt” ở trường (gần đây có hiện tượng học sinh bị đuổi hoặc bỏ học quay lại trả thù nhà trường, sỉ nhục giáo viên, gây rối). Tình trạng trên một phần là do tâm lý học sinh nhưng chủ yếu do việc giáo dục không đúng gây ra – nhất là khi các thầy cô giáo, các nhà sư phạm đơn giản hoá vấn đề hoặc vụng về khi áp dụng phương pháp giáo dục. Thái độ ban ơn, trịch thượng, áp đặt hoặc kêu gọi tình thương không đủ chỗ (của cha mẹ, của thầy cô giáo) thường cho kết quả trái ngược với ý đồ tốt đẹp của nhà giáo dục. Nghiêm trọng hơn là sự trách phạt quá nghiêm khắc (thậm chí kỷ luật học sinh) do định kiến, thành kiến của giáo viên (nhắc lại mọi lỗi lầm của học sinh khi các em phạm sai lầm, kể lại tiểu sử đen tối của các em; có khi ngẫu nhiên học sinh vi phạm gì đó lại bị quy chụp là cố ý, nếu không thừa nhận, không “thành khẩn” theo yêu cầu thì bị xem là ngoan cố, lì lợm, xảo quyệt). Học sinh biết rõ mức sai lầm đã phạm nếu được giải thích, thuyết phục với thái độ nghiêm túc Người thực hiện: Võ Văn Hảo – GV THCS Nghi Mỹ 5
  6. Giáo dục học sinh cá biệt nhưng khoan dung, thông cảm. Thái độ quá khắt khe, xét nét dễ bị các em xem là sự khó tính, trái nết của người lớn – thậm chí bị xem là thù vặt. Việc khôi phục niềm tin, làm thức tỉnh lương tri của học sinh không khó nhưng phải là thái độ cởi mở, chân thành, tin tưởng vào các em. Làm ngược lại chỉ gây sự căm phẫn, không chỉ ở đối tượng cần giáo dục lại mà ngày trong tập thể học sinh. Tình cảm, lòng tin của học sinh sẽ bị xoá mờ nếu như ta cứ đay nghiến, xét nét đi nhắc đi nhắc lại các sai sót, vi phạm của các em; và do ít kinh nghiệm, các em dễ bị kích động và có hành vi bột phát khi phản ứng lại. 3. Nguyên nhân giáo dục Đôi khi các giáo viên thiếu kinh nghiệm lại không được chuẩn bị đầy đủ về kiến thức, kỹ năng nên dễ giải quyết các tình huống giáo dục gay cấn bằng thói quen, bằng kinh nghiệm, bằng trực giác và vì thế khó tránh các sai lầm. Ví dụ: thiên về trừng phạt nặng, có thái độ cứng rắn đến mức thờ ơ, lạnh nhạt trái với lòng tin và mong muốn của học sinh. Trong tình thế này, người ta lẫn lộn giữa tâm lí học tội phạm và tâm lí học sinh “cá biệt” ! Mà ở đây thật ra cần tôn trọng giới hạn của hai lĩnh vực này. Sự non kém về sư phạm cũng gián tiếp tạo ra hiện tượng khó giáo dục. Thầy cô nào cũng cho thấy việc mình là quan trọng, bất chấp sức lực và quỹ thời gian của học sinh, đua nhau nêu yêu cầu quá nặng, thậm chí là vô lý, phản sư phạm khiến học sinh không sao thực hiện nổi. Và các em thường xuyên bị chê trách, bị kỷ luật dù gắng hết sức vẫn không sao thực hiện được các yêu cầu – kể cả các yêu cầu cơ bản nhất. Thầy cô ra lệnh, cấm đoán nhiều điều càng kích thích trí tò mò ở học sinh – và các em lại vi phạm. Thế là cái vòng luẩn quẩn xuất hiện: thầy cô, cha mẹ liên tục giao việc, nêu yêu cầu để tránh cho học sinh rơi vào tình trạng “nhàn cư”; nhưng các em liên tục vi phạm các yêu cầu, bị khiển trách liên miên hết ở nhà, lại ở trường, mắc hết khuyết điểm này lại đến sai phạm khác. Hệ quả là các em chán nản rã rời, có hết phản ứng này lại đến phản ứng khác. Chúng càng phản kháng thì các nhà sư phạm non tay lại càng ra sức khẳng định uy Người thực hiện: Võ Văn Hảo – GV THCS Nghi Mỹ 6