SKKN Tìm hiểu xung đột kịch trong đoạn trích "Vĩnh biệt cửu trùng đài" (Trích "Vũ Như Tô" của Nguyễn Huy Tưởng)

pdf 19 trang sangkien 31/08/2022 10580
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Tìm hiểu xung đột kịch trong đoạn trích "Vĩnh biệt cửu trùng đài" (Trích "Vũ Như Tô" của Nguyễn Huy Tưởng)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfskkn_tim_hieu_xung_dot_kich_trong_doan_trich_vinh_biet_cuu_t.pdf

Nội dung text: SKKN Tìm hiểu xung đột kịch trong đoạn trích "Vĩnh biệt cửu trùng đài" (Trích "Vũ Như Tô" của Nguyễn Huy Tưởng)

  1. SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO HÀ TĨNH oOo S¸ng kiÕn kinh nghiÖm ®Ò TµI: TÌM HIỂU XUNG ĐỘT KỊCH TRONG ĐOẠN TRÍCH "VĨNH BIỆT CỬU TRÙNG ĐÀI" (TRÍCH VŨ NHƯ TÔ CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG) LĨNH VỰC: NGỮ VĂN THPT TÁC GIẢ ĐỀ TÀI: TRẦN THỊ LAM ĐƠN VỊ: TRƯỜNG THPT CHUYÊN HÀ TĨNH HÀ TĨNH 2014 1
  2. A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Lịch sử văn học xét đến cùng là lịch sử hình thành và tiêu vong của các thể loại. Chính vì thế, cấu tạo chương trình ngữ văn THPT nhất là phần văn học đã coi trọng sự phát triển của loại thể. Tìm hiểu tác phẩm qua đặc trưng thể loại là hướng khám phá có hiệu quả để nhận chân những giá trị tư tưởng và nghệ thuật của một tác phẩm văn học. 1.2. Nếu tình huống là hạt nhân của truyện ngắn thì xung đột chính là linh hồn, là xương sống của một vở kịch. Nắm được xung đột kịch tức là chúng ta đã có được chiếc chìa khóa để mở cánh cửa bước vào thế giới nghệ thuật của một vở kịch. 1.3. Vũ Như Tô là vở bi kịch hiếm hoi của văn học Việt Nam hiện đại. Thể loại văn học và sân khấu này có quá nhiều nét ngoại biệt, không thấy ở các thể loại khác. Tác phẩm được chọn đưa vào giảng dạy trong nhà trường với đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài. Tuy nhiên việc khám phá chiều sâu nội dung tư tưởng qua xung đột kịch chưa thật sự được chú ý. Bởi vậy, đề tài của chúng tôi hướng đến một cách tiếp cận còn nhiều khoảng trống, đó là tìm hiểu đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài qua xung đột bi kịch. Việc tìm hiểu xung đột kịch trong đoạn trích còn có ý nghĩa thực tiễn: Giúp ta tìm ra phương pháp tiếp cận thích hợp với những văn bản kịch còn lại trong chương trình trung học phổ thông. Đó chính là lý do chọn đề tài của chúng tôi. 2. Phạm vi đề tài Do khả năng của người viết cũng như do qui mô của một bản sáng kiến kinh nghiệm, đề tài này chỉ đi sâu tìm hiểu một phương diện là xung đột bi kịch trong đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài. 3. Phương pháp thực hiện Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp và phương pháp so sánh, đối chiếu. 4. Đóng góp mới của đề tài (Ý nghĩa khoa học và thực tiễn) 2
  3. Về mặt lí luận, đề tài này đưa đến một cách tiếp cận mới đối với đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài, đó là tiếp cận từ phương diện xung đột bi kịch. Thông qua xung đột bi kịch để thấy được những vấn đề lớn lao mà nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đặt ra trong tác phẩm Vũ Như Tô. Về mặt thực tiễn, đề tài này sẽ giúp cho giáo viên và học sinh trong việc khám phá, giảng dạy và học tập các văn bản thuộc thể loại kịch trong nhà trường. Từ đó, có phương pháp tiếp cận thích hợp với các tác phẩm văn học cùng thể loại. 5. Bố cục của đề tài Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài gồm ba phần chính: 1. Giới thuyết về thể loại bi kịch. 2. Giới thuyết về tác giả Nguyễn Huy Tưởng và vở kịch Vũ Như Tô. 3. Tìm hiểu xung đột bi kịch trong đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài. B. PHẦN NỘI DUNG 1. Giới thuyết về thể loại bi kịch 1.1. Khái niệm Bi kịch là một thể loại kịch, thường được coi như là trái với hài kịch. Nếu truyện ngắn và tiểu thuyết phản ánh đời sống qua các sự kiện biến cố thì bi kịch phản ánh đời sống thông qua các xung đột không thể điều hòa được giữa cái thiện và cái ác, cái cao cả và cái thấp hèn diễn ra trong một tình huống cực kì căng thẳng mà nhân vật thường chỉ thoát ra khỏi nó bằng cái chết bi thảm gây nên những suy tư và xúc động mạnh mẽ. Bi kịch ra đời từ rất sớm ở Hy lạp cổ đại. Vào thế kỷ V tr.CN, bi kịch là một thể loại sân khấu rất thịnh hành với những tác giả nổi tiếng như Etsilơ, Xôphôklơ với những tác phẩm bất hủ còn lưu lại đến ngày nay như Prômêtê bị xiềng, Ăngtigôn Từ bấy đến nay bi kịch trải qua nhiều bước thăng trầm và không ngừng đổi mới về hình thức và nội dung nghệ thuật để ngày một hoàn thiện hơn về mặt thể loại. Ở Việt Nam không có bi kịch như một thể loại văn 3
  4. học - sân khấu theo quan niệm cổ điển mà chỉ có một số vở tuồng hoặc kịch hiện đại mà nội dung tư tưởng nghệ thuật có chứa đựng yếu tố bi kịch. Vở kịch Vũ Như Tô có thể coi là một vở bi kịch hiếm hoi của dân tộc. Nó đáp ứng đầy đủ và khá hoàn hảo mọi yêu cầu, mọi tiêu chí của thể loại bi kịch - một thể loại được coi là khó nhất và cao quí nhất của văn học. 1.2. Một số đặc trưng thi pháp của thể loại bi kịch 1.2.1. Xung đột bi kịch Kịch bản (có thể nói rộng hơn: văn bản nghệ thuật) trở thành tác phẩm bi kịch không phải mỗi khi nó kết thúc một cách bi thảm, mà khi nó được kết cấu trên cơ sở xung đột hay mâu thuẫn bi kịch. Trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng ta thấy chỉ có Vũ Như Tô chứa đựng mâu thuẫn bi kịch như là một yếu tố nền của tác phẩm, còn những trước tác khác của ông viết trước cũng như sau Cách mạng, cả kịch bản lẫn tiểu thuyết (Bắc Sơn và Những người ở lại, Ðêm hội Long Trì và An Tư), mặc dù chúng có nội dung bi thương hay bi hùng, nhưng không kết cấu và triển khai trên cơ sở xung đột hay mâu thuẫn bi kịch, cho nên không thể gọi là những tác phẩm bi kịch theo nghĩa khoa học chặt chẽ của từ ấy. Mâu thuẫn bi kịch, như chúng ta biết, là mâu thuẫn: a) mang tính nội tại; b) có ý nghĩa xã hội to lớn; c) không thể giải quyết; d) mọi cách khắc phục mâu thuẫn đều dẫn đến sự diệt vong những giá trị quan trọng. Các nhân vật của bi kịch thường chỉ có thể thoát ra khỏi xung đột bằng cái chết bi thảm. 1.2.2. Nhân vật bi kịch Nhân vật bi kịch thường có hai đặc điểm. Thứ nhất họ thường là những người anh hùng không bao giờ chịu khuất phục hoàn cảnh, là một con người quá khổ. Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng, cũng như Hamlet, như vua Lia không phải là người tốt theo nghĩa thông thường. Con người tốt bụng, con người hiền từ hay mềm yếu, mà sự mềm yếu là "phản chỉ định" đối với nhân vật bi kịch. Con người hiền từ yếu đuối, thụ động hứng chịu, quằn quại rên xiết dưới những đòn đánh không hiểu nổi của số phận là đối tượng của kịch cải lương. Vũ Như Tô, nhân vật bi kịch, bị lịch sử kết án chung thân làm một anh thợ vô danh 4
  5. tiểu tốt. Nhưng Vũ Như Tô đã chủ động vùng dậy chống lại số phận, thách thức số phận xây Cửu Trùng Ðài. Thứ hai, họ mang trong mình không chỉ những khát vọng lớn lao mà cả những lầm lạc trong suy nghĩ và hành động. Đây là đặc trưng cơ bản của nhân vật bi kịch. Triết gia và nhà văn hiện sinh chủ nghĩa Kierkegaard từng khẳng định: "Nếu con người hoàn toàn vô tội, bi kịch mất hết lý thú, bởi vì sẽ mất đi sức mạnh của xung đột bi kịch; mặt khác, nếu nhân vật tự nó có lỗi hoàn toàn, thì nó sẽ không thể khiến ta quan tâm, xét từ quan điểm bi kịch". Cho nên, nhân vật bi kịch phải vừa có tội vừa không có tội, vừa đáng thương vừa đáng trách. 1.2.3. Hiệu ứng bi kịch Aristote cho rằng hiệu ứng tâm lý của bi kịch là gây nên sự sợ hãi và xót thương. Nhưng cái đó chưa đủ và không phải là cái chính. Hành động bi kịch phải dẫn đến sự thanh tẩy những cảm xúc ấy. Sự thanh tẩy này đạt được bằng và nhờ sự giác ngộ cái lẽ sâu kín của những khổ đau bất hạnh đã đến với các nhân vật kịch. Ðây cũng là điểm quan trọng khu biệt bi kịch với kịch cải lương. Ở những thể loại này, hiệu ứng xót thương đến trào nước mắt, đến ngất xỉu là đặc trưng và tự đủ. Vũ Như Tô, tác phẩm bi kịch, không làm ta rơi nước mắt, nhưng nó bắt ta suy ngẫm về cái lẽ, cái nghĩa sâu xa của những gì ta đã đọc hoặc đã thấy (trên sân khấu). Một trong những hiệu ứng tâm lý quan trọng nữa của bi kịch là ưu tư bi kịch. Bi kịch được viết không phải để truyền cho ta niềm vui sống hay an ủi ta trong những khổ đau, có những thể loại khác phục vụ những nhu cầu ấy. Bi kịch khiến chúng ta lo lắng cho vận mệnh của những giá trị lớn của xã hội và con người. Vũ Như Tô là một tác phẩm như thế. Dĩ nhiên trong khuôn khổ một bản sáng kiến kinh nghiệm chúng tôi không có tham vọng tìm hiểu đầy đủ các phương diện thi pháp nói trên của bi kịch mà chỉ xin đi sâu tìm hiểu một khía cạnh đó là xung đột bi kịch trong đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài. 5
  6. 2. Giới thuyết về tác giả Nguyễn Huy Tưởng và vở kịch Vũ Như Tô 2.1. Về tác giả Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn nặng lòng với lịch sử dân tộc. Ông thường day dứt, suy tư trước lẽ hưng vong và suy tàn của quốc gia. Nhìn vào lịch sử nước nhà, Nguyễn Huy Tưởng nhận thấy lịch sử dân tộc thì rất hoành tráng với những chiến công hiển hách nhưng chúng ta lại chưa có tác phẩm nghệ thuật nào xứng tầm với nó. Trong lời đề tựa vở kịch Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng đã trăn trở: "Mải vật lộn quên đài cao mộng lớn, công ông cha hay là nỗi thiệt thòi". Bởi vậy, ông luôn khao khát viết được những tác phẩm có qui mô lớn, dựng lên những bức tranh, bức tượng hùng tráng về lịch sử bi hùng của dân tộc, nói lên những vấn đề có tầm triết lí sâu sắc về con người và cuộc sống. Ông thường hay quan tâm đến quá khứ dân tộc, phát hiện trong những câu chuyện quá khứ những vấn đề mang tính thời đại, soi sáng cho cuộc sống hiện tại của chúng ta. Nhưng ông không phải là một nhà “khảo cổ”, bản lĩnh nghệ sĩ vẫn bộc lộ trọn vẹn khi nhà văn phát hiện trong câu chuyện quá khứ những thông điệp dành cho hôm nay và thậm chí cả muôn đời. Vở kịch Vũ Như Tô là ví dụ tiêu biểu cho điều đó. 2.2. Về vở kịch Vũ Như Tô Nguyễn Huy Tưởng viết vở bi kịch Vũ Như Tô vào năm 1941, khi đó ông chưa đầy 30 tuổi. Vở kịch gồm 5 hồi, viết về một sự kiện có thật xảy ra ở kinh thành Thăng Long vào thời hậu Lê. Nhân vật chính của vở kịch là Vũ Như Tô, một kiến trúc sư thiên tài có khát vọng nghệ thuật cao cả. Lê Tương Dực, một hôn quân bạo chúa sai Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài để làm nơi vui chơi với các cung nữ. Vũ Như Tô đã từ chối dù bị đe dọa kết tội tử hình. Song Đan Thiềm, một cung nữ tài sắc nhưng bị ruồng bỏ, đã khuyên Vũ Như Tô nhận lời xây Cửu Trùng Đài vì đây là cơ hội để họ Vũ đem tài ra phục vụ đất nước, "Ông cứ xây lấy một tòa đài cao cả. Vua Hồng Thuận và lũ cung nữ kia rồi sẽ mât đi nhưng sự nghiệp của ông còn lại về muôn đời. Dân ta nghìn thu được hãnh 6
  7. diện", "Trước mắt người ta có thể oán ông nhưng sau này hậu thế sẽ hiểu cho ông". Vũ Như Tô đã nhận lời và ra sức xây dựng Cửu Trùng Đài. Đài xây cao bao nhiêu đời sống của nhân dân điêu linh khốn khổ bấy nhiêu. Kết quả là dân chúng nổi dậy giết chết Vua Lê Tương Dực, truy sát Vũ Như Tô, Đan Thiềm và tiêu hủy Cửu Trùng Đài. Một nửa thế kỷ sau khi ra đời, chỉ những năm gần đây vở kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng mới thực sự trở thành đối tượng của sự nghiên cứu chuyên sâu, sự trao đổi ý kiến cởi mở, hào hứng với nhiều khám phá mới. Nhiều ý kiến, luận điểm mới mẻ được phát biểu về những vấn đề mấu chốt của tác phẩm: thể tài, hình tượng nhân vật chính Vũ Như Tô và tính chất của mâu thuẫn kịch. Về thể tài của vở kịch hiện cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Một số người muốn xem đây như một vở kịch lịch sử, một số khác có xu hướng xem đây là bi kịch. Vở kịch Vũ Như Tô có nhiều yếu tố lịch sử nhưng nó không có ý định dựng lại, làm sống dậy một sự thật lịch sử nên cũng khó xem đây là một vở kịch lịch sử theo đúng nghĩa của nó. Qua Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng đặt ra những vấn đề sâu xa hơn liên quan đến nhiều mối quan hệ như nghệ sĩ và nhân dân, cái thiện và cái đẹp, đam mê và tội lỗi Những bài viết có giá trị gần đây nhất về Vũ Như Tô đều có xu hướng xem vở kịch này là một bi kịch. Đây cũng là quan điểm của chúng tôi. Trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi muốn đề cập đến một bình diện cơ bản của bi kịch Vũ Như Tô là xung đột kịch (thông qua đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài). 3. Xung đột bi kịch trong đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài 3.1. Diện mạo của xung đột Xung đột kịch bao giờ cũng được xây dựng dựa trên các mâu thuẫn. Khi các mâu thuẫn tương tác với nhau thì sẽ nảy sinh xung đột. Trong đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài, xung đột kịch được xây dựng dựa trên hai mâu thuẫn cơ bản: 7