SKKN Làm thế nào để gây hứng thú học tập hiệu quả trong giờ đọc hiểu của bộ môn Tiếng Anh

doc 22 trang sangkien 29/08/2022 9620
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Làm thế nào để gây hứng thú học tập hiệu quả trong giờ đọc hiểu của bộ môn Tiếng Anh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docskkn_lam_the_nao_de_gay_hung_thu_hoc_tap_hieu_qua_trong_gio.doc

Nội dung text: SKKN Làm thế nào để gây hứng thú học tập hiệu quả trong giờ đọc hiểu của bộ môn Tiếng Anh

  1. 1 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM LÀM THẾ NÀO ĐỂ GÂY HỨNG THÚ HỌC TẬP HIỆU QUẢ TRONG GIỜ ĐỌC HIỂU CỦA BỘ MÔN TIẾNG ANH I. Lí do chọn đề tài: Xã hội ngày càng phát triển thì người ta càng quan tâm, càng đòi hỏi nhiều ở giáo dục. Giáo dục trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp tham gia một cách quyết định vào việc cung ứng những con người có đủ phẩm chất và tài năng để xây dựng và phát triển đất nước theo hướng hội nhập. Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiếng anh là một trong những tiếng đã, đang và sẽ được rất nhiều người Việt Nam theo học do nhu cầu giao tiếp, học tập và nghiên cứu. Tiếng anh ở trong trường phổ thông là một môn học bắt buộc và cũng là một trong những môn học chính. Việc phổ cập tiếng anh ở các trường phổ thông hiện nay đặt ra những đòi hỏi ngày càng cao không chỉ về trình độ mà về phương pháp giảng dạy của người giáo viên dạy tiếng. Từ đó môn giáo học pháp đã bắt đầu thu hút mối quan tâm của nhiều giáo viên trong ngành. Tuy nhiên thực tế đào tạo và bồi dưỡng giáo viên ngoại ngữ ở Việt Nam cho thấy có những lý do và khó khăn nhất định khiến các giáo viên khó tiếp cận với bộ môn dể có thể nâng cao phương pháp giảng dạy của mìmh. Phương pháp giảng dạy và hoạt động chính chủ yếu là người thầy. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới đã chỉ ra rằng cuộc cách mạng về phương pháp (phương pháp lựa chọn dạy học, phương pháp sử dụng các phương tiện dạy học ) sẽ đem lại bộ mặt mới, sức sống mới cho giáo dục trong thời đại hội nhập. Ngoại ngữ, là ngôn ngữ thứ hai luôn có nhiều giao động và biến đổi theo nhịp tiến hóa chung của nền văn minh và văn hóa thế giới. Chúng ta không thể nào có một phương pháp thích hợp nhằm được mọi mục đích dạy và học ngoại ngữ như: nắm được các quy luật ngôn ngữ, chú trọng đến sự tiếp thu của người học và thực hiện mối quan hệ xã hội trong việc học ngoại ngữ. Thật vậy sẽ là một phương hướng lý tưởng và rất hấp dẫn nếu có ai đó biết tích hợp các phương pháp và đầu tư suy nghĩ phát triển các phương hướng như vậy. Là một giáo viên dạy ngoại ngữ tôi chỉ đề cập đến vấn đề “Làm thế nào để gây hứng thú học tập có hiệu quả trong giờ đọc hiểu của bộ môn Tiếng Anh”.
  2. 2 II. Cơ sở lý luận. 1. Khái niệm quá trình dạy học. Quá trình dạy học là gì? Phân tích từ lý luận dạy học, chúng ta có thể nêu lên những kết luận cơ bản sau đây: - Quá trình dạy học là một hệ toàn vẹn gồm hoạt động dạy và hoạt động học luôn luôn tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau, sinh thành ra nhau. Sự tương tác giữa dạy và học mang tính chất cộng tác, trong đó dạy giữ vai trò chủ đạo. - Quá trình dạy học là quá trình bảo đảm cùng một lúc ba sự thống nhất * Thống nhất giữa dạy và học; * Thống nhất giữa truyền đạt với chỉ đạo trong dạy; *Thống nhất giữa lĩnh hội và tự chỉ đạo trong học. - Bản chất của quá trình dạy học là sự thống nhất biện chứng của dạy và học; nó được thực hiện trong và bằng sự tương tác có tính chất cộng đồng và hợp tác (cộng tác) giữa dạy và học, tuân theo lôgíc khách quan của nội dung dạy học (khái niệm khoa học – đối tượng của học). 2. Mối quan hệ giữa hoạt động dạy và hoạt động học. Quá trình dạy học là một quá trình xã hội gắn liền với hoạt động của con người: hoạt động dạy và hoạt động học. Các hoạt động này có mục tiêu rõ ràng, có nội dung nhất định, do các chủ thể thực hiện - đó là thầy và trò, với những phương pháp và phương tiện nhất định. Sau một chu trình vận động, các hoạt động dạy và học phải đạt tới những kết quả mong muốn. Hoạt động dạy và hoạt động học có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thể hiện ở mối quan hệ tương tác giữa các thành tố: mục tiêu, nội dung, phương pháp của hoạt động dạy và hoạt động học. Phân tích mối quan hệ giữa hoạt động dạy và hoạt động học, chúng ta có thể đi đến kết luận: Hoạt động học, trong đó có hoạt động nhận thức của học sinh có vai trò quyết định kết quả dạy học. Để hoạt động học có kết quả thì trước tiên chúng ta phải coi trọng vai trò người giáo viên, giáo viên phải xuất phát từ lôgíc của khái niệm khoa học, xây dựng công nghệ dạy học, tổ chức tối ưu hoạt động cộng tác của dạy và học, thực hiện tốt các chức năng của dạy cũng như của học, đồng thời bảo đảm liên hệ nghịch thường xuyên, bền vững. Vì vậy, muốn nâng cao mức độ khoa học của việc dạy học ở trường phổ thông thì người hiệu trưởng phải đặc biệt chú ý hoàn thiện hoạt động dạy của giáo viên; chuẩn bị cho họ có khả năng hình thành và phát triển ở học sinh các phương pháp, cách thức phát hiện lại các thông tin học tập. Đây là khâu cơ bản để tiếp tục hoàn thiện tổ chức hoạt động học của học sinh.Nếu xét quá trình dạy học như là một hệ thống thì trong đó, quan hệ giữa hoạt động dạy của thầy với hoạt động học của trò thực chất là mối quan hệ điều khiển. Với tác động sư phạm của mình, thầy tổ chức, điều khiển hoạt động của trò. Từ đó, chúng ta có thể thấy công việc của người quản lý nhà trường là: hành động quản lý (điều khiển hoạt động dạy học) của hiệu
  3. 3 trưởng chủ yếu tập trung vào hoạt động dạy của thầy và trực tiếp đối với thầy; thông qua hoạt động dạy của thầy mà quản lý hoạt động học của trò. 3. Nhiệm vụ hoạt động dạy - học. a. Điều khiển, tổ chức học sinh nắm vững hệ thống tri thức khoa học phổ thông, cơ bản, hiện đại, phù hợp với thực tiễn Việt Nam về tự nhiên xã hội - nhân văn, đồng thời rèn luyện cho các em hệ thống kỹ năng, kỹ xảo tương ứng.Để tồn tại và phát triển, loài người đã không ngừng khám phá những bí mật của hế giới khách quan để nhận thức nó, cải tạo nó, phục vụ cho lợi ích của con người. Trong quá trình đó loài người đã tích lũy và khái quát hoá những kinh nghiệm xã hội dưới dạng những sự kiện khoa học, khái niệm, định luật, định lý, tư tưởng khoa học, học thuyết mà được gọi là những tri thức khoa học. Những tri thức này vô cùng lớn, mỗi người học suốt đời cũng không nắm hết được. Vì vậy nhiệm vụ của trường phổ thông chỉ có thể làm sao cho học sinh nắm những tri thức phổ thông cơ bản, hiện đại phù hợp với thực tiễn đất nước. Tri thức phổ thông cơ bản là những tri thức đã được lựa chọn và xây dựng từ các lĩnh vực khoa học khác nhau. Đó là những tri thức tối thiểu, cần thiết, làm nền tảng giúp các em tiếp tục học lên bậc học cao hơn, học ở các trường dạy nghề, hoặc bước vào cuộc sống tự lập, trực tiếp tham gia lao động sản xuất và tham gia các công tác xã hội và có cuộc sống tinh thần phong phú. Những tri thức hiện đại đó phải phù hợp với thực tiễn Việt Nam cũng như phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm hoạt động nhận thức của học sinh mà vẫn đảm bảo được tính hệ thống, tính lôgíc khoa học và mối liên hệ chặt chẽ giữa các môn học. Trong quá trình tổ chức điều khiển học sinh lĩnh hội những tri thức đó, người giáo viên hình thành cho học sinh hệ thống kỹ năng, kỹ xảo nhất định, đặc biệt những kỹ năng, kỹ xảo có liên quan tới hoạt động học tập, tự học và tập dượt nghiên cứu khoa học ở mức độ thấp, nhằm giúp cho các em không những chỉ nắm vững tri thức mà còn biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong các tình huống khác nhau. b. Tổ chức, điều khiển học sinh hình thành phát triển năng lực và những phẩm chất trí tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy độc lập, sáng tạo. Sự phát triển trí tuệ nói chung có nét đặc trưng bởi sự tích lũy vốn tri thức và các thao tác trí tuệ thành thạo, vững chắc của con người. Đó là quá trình chuyển biến về chất trong quá trình nhận thức của người học. Năng lực hoạt động trí tuệ được thể hiện ở năng lực vận dụng các thao tác trí tuệ, đặc biệt là các thao tác tư duy. Quá trình chiếm lĩnh tri thức diễn ra thống nhất giữa một bên là nội dung những tri thức với tư cách là “cái được phản ánh” và một bên là các thao tác trí tuệ với tư cách là “phương thức phản ánh”. Như vậy, hệ thống tri thức được học sinh lĩnh hội thông qua các thao tác trí tuệ của họ và ngược lại, chính các thao tác trí tuệ cũng được hình thành và phát triển trong quá trình chiếm lĩnh tri thức rèn luyện kỹ năng kỹ xảo. Trong quá trình dạy học, với vai
  4. 4 trò tổ chức, điều khiển của thầy, học sinh không ngừng phát huy tính tích cực nhận thức, tự lực rèn luyện các thao tác trí tuệ, dần dần hình thành và phát triển các phẩm chất của hoạt động trí tuệ. Sự phát triển trí tuệ ở học sinh được phản ánh thông qua sự phát triển không ngừng các chức năng tâm lý và phẩm chất trí tuệ, đặc biệt là quá trình tư duy độc lập, sáng tạo của người học sinh, bởi lẽ “tư duy có sắc sảo thì tài năng của con người mới lấp lánh”.Sự phát triển trí tuệ có mối quan hệ biện chứng với hoạt động dạy học. Dạy học được tổ chức đúng sẽ thúc đẩy sự phát triển năng lực và phẩm chất trí tuệ của học sinh và ngược lại sự phát triển đó sẽ tạo điều kiện cho hoạt động dạy học đạt chất lượng cao hơn. Đó cũng là một trong những qui luật của dạy học. Điều kiện cần thiết để thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của học sinh là hoạt động dạy học phải luôn luôn đi trước sự phát triển trí tuệ và dạy học phải xác định mức độ khó khăn vừa sức học sinh, tạo điều kiện để phát triển tối đa những tiềm năng vốn có của trẻ. c. Tổ chức, điều khiển học sinh hình thành cơ sở thế giới quan khoa học, những phẩm chất đạo đức nói riêng và phát triển nhân cách nói chung. Trên cơ sở tổ chức cho học sinh nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, phát triển năng lực nhận thức mà hình thành cho các em cơ sở thế giới quan khoa học, những phẩm chất đạo đức nói riêng và phát triển nhân cách nói chung theo mục đích giáo dục đã đề ra. Thế giới quan là hệ thống những quan điểm về thế giới, về những hiện tượng tự nhiên và xã hội. Trong xã hội có giai cấp, thế giới quan cá nhân đều mang tính giai cấp. Vì vậy trong quá trình dạy học, chúng ta phải quan tâm giáo dục cho học sinh cơ sở thế giới quan khoa học để các em có suy nghĩ đúng, thái độ đúng và hành động đúng; đồng thời bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức theo mục tiêu giáo dục thông qua nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Tóm lại, Ba nhiệm vụ trên có quan hệ mật thiết với nhau, tác động hỗ trợ lẫn nhau để thực hiện mục đích giáo dục có hiệu quả. Thiếu tri thức, kỹ năng, kỹ xảo tương ứng, thiếu phương pháp nhận thức thì không thể tạo điều kiện cho sự phát triển trí tuệ và thiếu cơ sở cho sự hình thành thế giới quan khoa học. Phát triển trí tuệ vừa là kết quả, vừa là điều kiện của việc nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và là cơ sở để hình thành thế giới quan khoa học và những phẩm chất đạo đức. Phải có trình độ phát triển nhận thức nhất định mới giúp học sinh có cách nhìn, có thái độ và hành động đúng. 4. Sử dụng giáo cụ trực quan. Kể từ khi phương pháp giao tiếp được ứng dụng, người dạy ngoại ngữ chú trọng nhiều việc sử dụng các giáo cụ trực quan hay phương tiện nghe - nhìn để giúp cho việc giới thiệu và rèn luyện có ý nghĩa hơn và giúp cho khí thế học tập được thêm phần hào hứng. Với sự tiến bộ của khoa học và kỷ thuật, các phương tiện nghe nhìn ngày nay rất phong phú và đa dạng, từ những tranh những tranh có nhiều màu sắc, in đẹp được sản xuất hàng loạt đến những phương tiện điện tử, tin học tối tân