Sáng kiến kinh nghiệm Về giáo dục đạo đức học sinh bậc THCS
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Về giáo dục đạo đức học sinh bậc THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_ve_giao_duc_dao_duc_hoc_sinh_bac_thcs.doc
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Về giáo dục đạo đức học sinh bậc THCS
- SKKN về “Giáo dục đạo đức học sinh bậc THCS” năm 2010-2011 I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI: Đạo đức là những chuẩn mực xã hội về thái độ, hành vi, ý thức của một cá nhân. Một xã hội mới không phải chỉ cần có nền kinh tế mới mà cần phải có những con người mới. Con người mới trong quan điểm phát triển của Đảng ta phải là một con người phát triển toàn diện cả đức lẫn tài, văn – trí – thể - mỹ, để có thể trở thành chủ thể có ý thức trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam XHCN. Trong tình hình đất nước ta hiện nay về xã hội cũng như về trình độ KHKT còn chậm phát triển so với các nước tiên tiến trên thế giới thì vấn đề giáo dục là một vấn đề hết sức cấp bách. Như Bác Hồ đã từng nói: “Muốn xây dựng CNXH trước hết cần có những con người XHCN”. Ta hiểu con người XHCN phải là con người có đạo đức cách mạng. Vị trí của cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa có vị trí đặc biệt quan trọng, trong đó GDĐĐ phải là vị trí hàng đầu.Vì vậy, nhiệm vụ của các nhà trường là phải đảm đương, gánh vác một phần rất quan trọng trong việc GDĐĐ cho các thế hệ tiếp theo. Hơn nữa, trong hiện thực xã hội nước ta hiện nay, vấn đề về đạo đức trong giới học sinh, sinh viên đang là vấn đề nổi cộm làm nhức nhối dư luận. Thực tiễn chất lượng GDĐĐ cho học sinh trong các nhà trường và ngoài xã hội đang dần dần đi xuống. Cho nên, vấn đề GDĐĐ cho học sinh phải được đặt ở vị trí hàng đầu, quan trọng và cần thiết. Mỗi cá nhân, mỗi tổ chức đoàn thể và các cấp có thẩm quyền phải cùng nhau tìm ra nguyên nhân và giải pháp để giải quyết vấn đề này. Cần phải chú trọng nhiều hơn nữa vào việc GDĐĐ cho học sinh để bồi dưỡng nhân sinh quan cộng sản cho các em, gột rửa những hành vi dối trá, những biểu hiện tiêu cực để tạo nên những con người cộng sản, góp phần thúc đẩy sự phát triển của một xã hội văn minh, tiến bộ. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên tôi đã quyết định nghiên cứu và thực hiện đề tài này. II. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI: Đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức học sinh bậc THCS, phân tích nguyên nhân, tìm ra những vấn đề liên quan đến công tác giáo dục đạo đức, từ đó đề ra một số biện pháp giáo dục đạo đức học sinh có hiệu quả trong công tác dạy học. GV thực hiện: Phương Thị Mỹ Liên. 5
- SKKN về “Giáo dục đạo đức học sinh bậc THCS” năm 2010-2011 III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU: Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu về công tác giáo dục đạo đức học sinh bậc THCS. Phạm vi nghiên cứu: Cách ứng xử của giáo viên với học sinh THCS và cách ứng xử giữa học sinh THCS với nhau. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 1. Phương pháp chủ yếu: - Phương pháp quan sát sư phạm. - Phương pháp điều tra giáo dục. - Phương pháp thực nghiệm giáo dục. 2. Phương pháp hỗ trợ: - Phương pháp tổng kết. - Phương pháp nghiên cứu tài liệu. - Phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết. V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU: 1. Cơ sở lý luận: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bao gồm những nguyên tắc và chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của mình và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ người và người và con người với tự nhiên. Theo quan điểm Mác-Lê Nin thì đạo đức là phạm trù có ý thức xã hội. Nó là cấu trúc kinh tế xã hội của một xã hội cụ thể trong lịch sử. Đạo đức mang tính vĩnh hằng, tính lịch sử, tính giai cấp. Mỗi giai cấp có chuẩn mực đạo đức khác nhau. Đạo đức là những chuẩn mực xã hội về thái độ, hành vi và ý thức của một cá nhân. Trong phạm vi các nhà trường thì GDĐĐ là làm cho học sinh hiểu được thế nào là đạo đức, hình thành cho học sinh niềm tin đạo đức, tình cảm đạo đức, hành vi và thói quen đạo đức. GDĐĐ là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến học sinh nhằm giúp cho nhân cách mỗi học sinh được phát triển đúng đắn, giúp học GV thực hiện: Phương Thị Mỹ Liên. 6
- SKKN về “Giáo dục đạo đức học sinh bậc THCS” năm 2010-2011 sinh có những hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ: của cá nhân với xã hội, của cá nhân với lao động, của cá nhân với mọi người xung quanh và của cá nhân với chính mình. Trong tất cả các mặt giáo dục thì GDĐĐ giữ một vị trí hết sức quan trọng. Vì Hồ Chủ Tịch đã nói: “Dạy cũng như học, phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức Cách mạng, đó là cái gốc rất quan trọng, nếu không có đạo đức Cách mạng thì có tài cũng vô dụng ”. Giáo dục đạo đức có ý nghĩa lâu dài, được thực hiện thường xuyên và trong mọi tình huống chứ không phải chỉ được thực hiện khi có tình hình phức tạp hoặc có những đòi hỏi cấp bách. Trong nhà trường THCS, giáo dục đạo đức là mặt giáo dục phải được đặc biệt coi trọng, nếu công tác này được coi trọng thì chất lượng giáo dục toàn diện sẽ được nâng lên vì đạo đức có mối quan hệ mật thiết với các mặt giáo dục khác. Giáo dục là một quá trình liên tục, giáo dục suốt đời, giáo dục THCS có tính chất trung gian trong hệ thống giáo dục, nhằm chuẩn bị cho học sinh, thanh niên trực tiếp bước vào đời. Đặc biệt, GDĐĐ học sinh là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công tác chủ nhiệm. Bởi đạo đức học sinh trong lớp quyết định nề nếp thi đua của lớp. Giáo viên chủ nhiệm là lực lượng chính trong công tác GDĐĐ học sinh, là người quản lý mọi hoạt động của lớp học, là người triển khai mọi hoạt động của nhà trường đến từng học sinh. Trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, mỗi giáo viên cần xác định nhiệm vụ chủ yếu đối với học sinh là Giáo dục và Giáo dưỡng. Trong quá trình giảng dạy ta không nên coi nhẹ hai nhiệm vụ đó, bởi giáo dục và giáo dưỡng mới đào tạo được một học sinh toàn diện theo yêu cầu của nền giáo dục mới. 2. Thực trạng: a) Thuận lợi: Được sự lãnh đạo và chỉ đạo thường xuyên của Ban lãnh đạo phòng GD&ĐT huyện Bắc Sơn. Được sự quan tâm của chính quyền địa phương, BGH nhà trường, sự nhiệt tình của hội phụ huynh học sinh cùng tâp thể giáo viên trong nhà trường. GV thực hiện: Phương Thị Mỹ Liên. 7
- SKKN về “Giáo dục đạo đức học sinh bậc THCS” năm 2010-2011 Đa số các em học sinh chăm ngoan, hiếu học, biết lễ phép với thầy cô giáo, đoàn kết, hòa nhã với bạn bè. Cơ sở vật chất của nhà trường đã được nâng cao hơn năm cũ, lớp học khang trang, sân trường sạch sẽ, thoáng mát tạo điều kiện cho việc dạy và học có hiệu quả hơn. b) Khó khăn: Hiện nay, vấn đề đạo đức của học sinh trường THCS xã Đồng Ý đang là một vấn đề khiến cho các thầy, cô giáo và các bậc phụ huynh phải phàn nàn, bởi tình trạng đạo đức học sinh ngày càng bị suy thoái, xuống cấp, ví dụ như tình trạng học sinh đánh nhau ngày càng phổ biến. Bên cạnh đó, tình trạng học sinh bỏ tiết, bỏ giờ, vi phạm nội quy, quy định của trường, lớp ngày càng gia tăng. Nhiều học sinh ý thức đạo đức còn kém như gặp thầy cô không biết chào hỏi, không biết giúp đỡ bạn bè khi gặp hoàn cảnh khó khăn, đơn giản như khi thấy bút của bạn hết mực nhưng chưa có bạn nào tự giác cho bạn mượn phải đợi cô giáo nhắc nhở Một số học sinh còn hay nói tục, chửi bậy, nói năng chưa được lễ độ, ứng xử thiếu tế nhị. Một số học sinh chưa thật thà, trung thực trong việc báo cáo các thành tích và vi phạm của lớp mình hoặc của các bạn trong lớp Theo tôi, sở dĩ còn những tồn tại nêu trên là do tập trung ở một số nguyên nhân sau đây: * Về phía bản thân học sinh: Phần lớn học sinh đang ở lứa tuổi thay đổi về tâm, sinh lý, rất hiếu động, các em dễ bị nhiễm những thói quen xấu của các bạn khác. Một số học sinh chưa xác định đúng đắn động cơ và mục đích học tập, các em nghĩ đơn giản đến trường chỉ là đi chơi, trốn việc gia đình. Một số học sinh vẫn còn thói quen lười biếng học tập, hay quay cóp, lừa dối bố mẹ và thầy cô, dọa nạt, gây gổ với bạn bè, lảng tránh hoạt động tập thể Nhiều em khi bị phê bình hoặc bị phạt lên đứng cột cờ vẫn không lấy làm xấu hổ, sau đó vẫn tiếp tục tái phạm. Nhiều em có thái độ chống đối thầy, cô ra mặt. * Về phần gia đình: GV thực hiện: Phương Thị Mỹ Liên. 8
- SKKN về “Giáo dục đạo đức học sinh bậc THCS” năm 2010-2011 Một số phụ huynh chưa thật sự quan tâm đến việc học hành của con em mình, họ phó thác hết trách nhiệm giáo dục cho nhà trường. Nhiều phụ huynh vì hoàn cảnh phải đi làm ăn xa không có điều kiện ở gần chăm sóc con cái, họ gửi con cho ông bà hoặc người thân chăm sóc, lâu lâu gửi tiền gửi gạo về cho con, không biết con mình ở nhà ăn học ra sao. Khi giáo viên chủ nhiệm cần liên hệ thì cũng chẳng có cách nào tìm gặp được phụ huynh. Một số gia đình khá giả, quá nuông chiều con, đưa tiền cho con cái nhưng không quan tâm xem chúng sử dụng tiền đó vào việc gì, có chính đáng hay không. Nhiều phụ huynh cho con dùng điện thoại di động, các em mang đến lớp và chỉ chú trọng nhắn tin cho bạn bè, rồi nghe nhạc cả những lúc tròn giờ học * Về phía xã hội: Trước xu thế phổ cập THCS, học sinh trong lứa tuổi này được xã hội ưu ái nhiều hơn nên đôi khi các em có nhiều yêu sách với giáo viên khi bị nhắc nhở, gây khó khăn cho việc giáo dục học sinh. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã nâng cao chất lượng cuộc sống, gây ra những biến động về giá trị đạo đức: tự do ngôn luận, tính lễ phép, tính trung thực, tính chăm chỉ bị suy thoái trầm trọng so với những năm học trước. Xã hội phát triển hơn, nền kinh tế của địa phương cũng khá so với những năm trước, trên địa bàn xã xuất hiện nhiều điểm vui chơi giải trí như quán karaoke, quán xá bán hàng, một số bàn bi-a, đặc biệt là bàn bi-a lại đặt ngay trên con đường vào gần tận cổng trường tạo điều kiện cho học sinh có chỗ chơi mỗi khi ra lớp hoặc các em bổ giờ bỏ tiết để ra đánh bi-a. Nhiều trò chơi điện tử hấp dẫn, lôi cuốn các em. Còn các nhà kinh doanh thì chỉ biết vui vẻ khi thu tiền, vì “khách hàng là thượng đế” họ không cần biết làm như vậy là đã vô tình làm cho các em học sinh ngày càng trở nên hư hỏng. Một số học sinh ngày nay còn tung những video clip riêng tư hoặc nhưng clip đánh nhau lên mạng gây xôn xao dư luận và làm bao người làm cha, mẹ phải đau lòng, nhưng các em học sinh lại cho rằng đó là nổi, đó là hiện đại. Những việc phản giáo dục như thế đã vô tình ảnh hưởng đến cách nghĩ và cách sống của một bộ phận giới trẻ mà xã hội ta lại chưa thật sự xử lý nghiêm. GV thực hiện: Phương Thị Mỹ Liên. 9