Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm ở THCS

doc 17 trang sangkien 31/08/2022 6800
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm ở THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ren_ky_nang_lam_van_bieu_cam_o_thcs.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm ở THCS

  1. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: “Văn học là nhân học”. Văn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Bộ môn văn học là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, môn văn có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Đồng thời cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với các môn học khác. Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại, các môn học khác cũng góp phần học tốt môn văn. Điều đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực hành, giảm lí thuyết, gắn học với hành, gắn kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú, sinh động của cuộc sống . Môn văn trong nhà trường bậc THCS chia làm ba phân môn: Văn học, Tiếng việt, Tập làm văn. Trong thực tế dạy và học, phân môn tập làm văn là phân môn “nhẹ kí” nhất. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Dạy làm văn là chủ yếu là dạy cho học sinh diễn tả cài gì mình suy nghĩ, mình cần bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ chính xác, làm nỗi bật điều mình muốn nói”. . . (Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện, Nghiên cứu giáo dục, số 28, 11/1973) . Trong giảng dạy môn ngữ văn 7, tôi nhận thấy mặc dù biểu lộ tình cảm, cảm xúc là một nhu cầu thiết yếu của con người nhưng học sinh chưa biết cách bộc lộ cảm xúc của mình để “khơi gợi lòng đồng cảm nơi người đọc” ( Văn 7 – tập 1). Khi hành văn, các em còn lẫn lộn, chưa phân biệt rõ ràng, rạch ròi giữa văn biểu cảm với các thể loại văn khác. Chính vì thế, điểm các bài kiểm tra và điểm trung bình môn văn của các em còn thấp. Thực tế đó qủa là đáng lo ngại. Thực trạng vấn đề này ra sao? Vì sao học sinh gặp nhiều khó khăn trong việc làm văn biểu cảm? Cần phải làm gì để nâng cao chất lượng dạy và học văn biểu cảm cho học sinh THCS? Đó là những vấn đề tôi trăn trở, muốn cùng được chia sẻ với các đồng nghiệp trong sáng kiến kinh nghiệm này . 2. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu: Chương trình Trung học cơ sở ban hành năm 2002, phần Nội dung chương trình quy định văn biểu cảm chỉ được học 14 tiết ở lớp 7. Chính vì thế 1
  2. trong sáng kiến kinh nghiệm này, tôi chỉ đề cập đến nội dung văn biểu cảm trong SGK văn 7 tập 1 . 3. Mục đích: Khi đặt ra vấn đề: Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm để nâng cao chất lượng dạy học văn biểu cảm ở THCS? Tôi muốn các đồng nghiệp chia sẽ cùng tôi những kinh nghiệm giảng dạy, trao đổi bàn luận để tìm ra biện pháp thiết thực, khả thi nhất, giải quyết triệt để tình trạng học sinh chỉ chú ý đến môn học tự nhiên hơn môn học xã hội, bộc lộ tình cảm, cảm xúc một cách hạn chế. Mục đích cuối cùng của người viết sáng kiến này là mỗi giáo viên văn sẽ đào tạo cho đất nước những thế hệ học sinh, không chỉ thành thục về kĩ năng mà còn giàu có về cảm xúc, có tâm hồn trong sáng, nhân ái, biết vươn tới Chân – Thiện – Mĩ 4. Điểm mới của SKKN: Đưa ra từng hoạt động cụ thể cho người giáo viên có thể thực hiện trong quá trình giảng dạy phần kiến thức về văn biểu cảm ở lớp 7, có những ví dụ minh họa cụ thể và sinh động cho từng bước dễ vận dụng phù hợp với các đối tượng học sinh. 2
  3. PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu: “Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm ở THCS” 1.1: Văn biểu cảm là loại văn thể hiện nội tâm, tâm trạng của người viết. Ngồi trước trang giấy, nếu tâm hồn trống rỗng không cảm xúc, đầu óc mông lung không rõ ý nghĩ gì thì người viết không thể có được một bài văn biểu cảm có hồn. Lúc đó, bài văn hoặc khô khan, nhạt nhẽo, ngắn ngủi hoặc giả tạo, vay tình mượn ý. Người giáo viên, khi dạy văn THCS nói chung, dạy văn biểu cảm nói riêng, ngoài nắm kiến thức, phương pháp lên lớp còn cần có một tâm hồn, một trái tim sống cùng tác giả, tác phẩm. 1.2: Để dạy và học tốt văn biểu cảm ở THCS, người dạy và người học cần nắm vững hệ thống 6 bài học và luyện tập về văn biểu cảm (trong số 14 tiết học văn biểu cảm ở lớp 7 – học kì I ) gồm : - Tìm hiểu chung về văn biểu cảm - Đặc điểm của văn biểu cảm - Đề văn biểu cảm và cách làm bài văn biểu cảm - Cách lập ý của bài văn biểu cảm - Các yếu tố tự sự và miêu tả trong văn biểu cảm - Cách làm bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học Chương 2: Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 2.1. Viết vài nét về địa bàn thực hiện sáng kiến: 2.2. Viết thực trạng vấn đề được nghiên cứu trong sáng kiến: Qua nhiều năm giảng dạy chương trình ngữ văn lớp 7, tôi nhận thấy kĩ năng nhận diện các phương thức biểu đạt trong văn bản, kĩ năng viết, bộc lộ cảm xúc trong bài tập làm văn của một bộ phận học sinh còn yếu . Năm học 2013 – 2014, khi viết bài tập làm văn số 2 với đề bài “Loài cây em yêu”. Dù mới vừa học và hình thành kĩ năng tạo lập văn bản biểu cảm xong nhưng nhiều học sinh không phân biệt được văn miêu tả, văn tự sự với văn biểu cảm nên bài viết không viết về thái độ và tình cảm của mình đối với một loài cây cụ thể mà tả, kể về loài cây đó. Hoặc tiết viết bài tập làm văn số 3 đề yêu cầu “Cảm nghĩ của em về hình ảnh người bà thân yêu của mình”. Học sinh viết 3
  4. “Bà nội hay thức khuya dậy sớm để làm việc mà tối nội chưa làm. Bà thường đi làm thuê để kiếm tiền nuôi chúng em. Em thấy vậy bảo bà nội hay là nội đừng đi làm thuê nữa, nội chuyển sang nấu xôi đi. Nội suy nghĩ một hồi lâu rồi nói, đó cũng là một ý kiến hay”. Đoạn văn viết về người bà thân yêu của mình mà người đọc cảm thấy như viết về một người xa lạ vì không hề có một tình cảm nào của cháu với bà hơn nữa hầu như đó chỉ là kể. Cũng với đề văn như trên, một học sinh khác viết câu kết bài :“Cảm nghĩ của em về bà là một người bà yêu mến con cháu”. Câu văn nêu rõ cảm nhận về bà nhưng gượng ép khô khan. Có lẽ với các viết văn như nghĩa vụ nên làm qua loa cho xong rồi đem nộp. Kể cả học sinh khá, dù cảm và hiểu được yêu cầu của đề, xác định đúng hướng làm bài nhưng kể vẫn nhiều hơn biểu cảm. Sau đây là bảng số liệu thống kê điểm trung bình môn văn học kì I khối 7 năm học 2013 – 2014 Tỉ lệ học sinh Tỉ lệ học sinh Tỉ lệ học sinh Tỉ lệ học sinh Tỉ lệ học sinh giỏi khá trung bình yếu kém 15% 70% 15% 0% 0% 2.3. Nguyên nhân Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên thì có nhiều song theo tôi, do một số nguyên nhân chủ yếu sau : Đối với người dạy Đa số giáo viên đều tận tụy với công tác giảng dạy, chăm lo quan tâm đến học sinh nhưng vẫn còn những mặt hạn chế sau: - Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với một bộ phận không nhỏ học sinh yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao. - Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương pháp trực quan vào tiết học hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài của học sinh. - Một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi được mạch nguồn cảm xúc ẩn sau mỗi trái học sinh. 4
  5. - Do sĩ số lớp đông nên rất khó cho giáo viên trong việc theo sát, kèm cặp từng học sinh trong một tiết dạy. - Giáo viên chỉ nặng về giảng lý thuyết không đầu tư cho các tiết thực hành như luyện tập, luyện nói , không chịu khó sưu tầm các đoặn văn, bài văn hay cho các em tham khảo. - Nhiều giáo viên cho học sinh chép nhiều gây nhàm chán cho học sinh. Đối với học sinh - Một số học sinh vì lười học, chán học nên không chuẩn bị tốt tâm thế cho giờ học văn. - Vì bố mẹ bận công việc chưa bám sát tốt thời gian tự học của các con. - Đa số các em lười hoặc không bao giờ đọc sách, kể cả văn bản trong SGK. - Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải trí như xem ti vi, chơi game . . . ngày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý thức học bị lôi cuốn, xao nhãng việc học . Chương 3: Đề xuất giải pháp và kết quả nghiên cứu 3.1: Các biện pháp: Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng đánh giá rất cao lứa tuổi học sinh trong nhà trường như sau “Lứa tuổi từ 7 đến 17 là rất nhạy cảm, thông minh lạ lùng lắm”. Đúng như vậy các em không phải không có khả năng cảm nhận và biểu hiện đạt những cảm nhận ấy mà là do các em chưa biết cách. Là giáo viên dạy văn tôi thiết nghĩ mình có nhiệm vụ giúp học sinh thể hiện sự nhạy cảm, thông minh ấy Từ thực tế giảng dạy, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp trong việc rèn kỹ năng làm văn biểu cảm để nâng cao chất lượng dạy học văn biểu cảm ở bậc THCS như sau : 3.1.1: Đối với giáo viên Ngoài một số phương pháp tích cực trong dạy học phân môn tập làm văn như phương pháp dạy tập làm văn thông qua hoạt động, phương pháp trực quan, hình thức vấn đáp, thảo luận, tự học . . .Giáo viên cần vận dụng sáng tạo một số 5
  6. phương pháp khác như phương pháp đóng vai, phương pháp sử dụng trò chơi học tập Và theo tôi chúng ta khi dạy văn biểu cảm cho học sinh cần: * Dù dạy văn biểu cảm về sự vật và con người hay văn biểu cảm về tác phẩm văn học, giáo viên luôn phải định hướng và hướng dẫn các em nắm vững quy trình để làm một bài văn biểu cảm tốt. Quy trình đó bao gồm : a.Tìm hiểu đề và tìm ý Tìm hiểu đề Một đề bài thường ra dưới dạng khái quát nhằm thích hợp với tất cả đối tượng học sinh. Do đó, quá trình tìm hiểu đề bài sẽ diễn ra như một hoạt động nhằm cá thể hóa đề bài cho từng học sinh kết quả của quá trình này là mỗi học sinh có một đề bài cho riêng mình. Trong đề bài văn biểu cảm, giáo viên cần định hướng cho các em tìm hiểu đề bằng cách tìm ra lời giải cho các câu hỏi sau : - Em định phát biểu cảm nghĩ, tình cảm, mong muốn về đồ vật (con vật , loài cây, cảnh vật . . .)nào? về người nào? về tác phẩm nào ? - Em viết bài biểu cảm đó nhằm mục đích gì?(giãi bày cảm xúc, tình cảm nào?) - Em viết bài biểu cảm đó để ai đọc(cô giáo, thầy giáo, bố mẹ, bạn bè. . .)? Lời giải đáp cho ba câu hỏi trên sẽ quyết định nội dung bài viết (trình bày cảm xúc gì ?), giọng điệu bài viết (viết cho bạn bè phải là giọng văn thân mật, có thể suồng sã; còn viết cho thầy cô hoặc bố mẹ phải thân thiết nhưng nghiêm trang ) Tìm ý Giáo viên chỉ ra cho học sinh cách đi tìm ý như sau: Tìm ý cho bài văn biểu cảm chính là tìm cảm xúc, tìm những ý nghĩ và tình cảm để diễn đạt thành nội dung của bài. Ý nghĩ, cảm xúc, tình cảm muôn màu muôn vẽ trong các bài văn biểu cảm đều bắt nguồn từ việc quan sát cuộc sống xung quanh, từ những gì người viết đã sống và trải qua, đã tiếp xúc trong tác phẩm. Vì thế, muốn tìm ý cho bài văn biểu cảm không phải cứ ngồi một chỗ mà đợi ý nghĩ, cảm xúc đến. Sau khi có một đề bài, hãy quan sát kĩ đối tượng đề bài nêu ra để từ đó, cảm xúc xuất hiện. Nếu không có điều kiện quan sát trực tiếp, hãy lục lọi trong trí nhớ, trong kỉ niệm những gì mình biết về đối tượng và từ từ nhớ lại các chi tiết. Nếu 6