Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng làm văn biểu cảm

doc 12 trang sangkien 30/08/2022 12520
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng làm văn biểu cảm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ren_ki_nang_lam_van_bieu_cam.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng làm văn biểu cảm

  1. RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN BIỂU CẢM I, ĐẶT VẤN ĐỀ: Tập làm văn là một trong ba phân môn của bộ môn Ngữ Văn. Đây là phân môn thực hành sử dụng tiếng Việt (rèn kĩ năng thực hành nói, viết, tạo lập văn bản tiếng Việt ).Trong các văn bản và phương thức biểu đạt: tự sự, miêu tả, nghị luận, thuyết minh, điều hành thì biểu cảm đóng vai trò rất quan trọng. Yếu tố biểu cảm luôn cần thiết cho các loại văn bản. Về văn bản biểu cảm chủ yếu được học ở lớp 7 còn yếu tố biểu cảm trong các kiểu văn bản thì được học ở tất cả các khối lớp 7, 8, 9. Để làm được bài văn biểu cảm đòi hỏi mỗi ngườ i phải tự cảm thấy mình qua những ấn tượng, ý nghĩ, cảm xúc chủ quan của mình đối với thế giới nhân sinh. Văn biểu cảm thường trình bày trực tiếp cảm xúc, tâm trạng, ý nghĩ của con người nên xúc động trữ tình bao giờ cũng mang thời hiện tại, đòi hỏi người viết phải thể hiện chân thực rung động để tạo nên sức mạnh truyền cảm tới người đọc. Thực tế giảng dạy cho thấy, phần đông học sinh không có khả năng diễn tả tình cảm, cảm xúc của mình mà thường là nói theo tài liệu, nói lại những gì thầy cô thuyết giảng. Các em hiểu bài, nắm vững lí thuyết, phương pháp tiến hành nhưng để tạo lập được một văn bản biểu cảm thực sự có ấn tượng lại là điều không mấy dễ dàng. Các em thường ngại nói, ngại bày tỏ và cũng có thể là không đủ sức diễn tả tình cảm, cảm xúc của mình. Chính vì vậy, bài làm văn biểu cảm của học sinh thường là khô khan, công thức, sức sáng tạo và dấu ấn cá nhân mờ nhạt. Ngôn từ trong bài văn biểu cảm thiếu sức gợi và sự lay động Nói tóm lại là yêu cầu biểu cảm chưa được đáp ứng đúng mức. Từ thực tế đó, trong quá trình giảng dạy, tôi đã vận dụng một số phương pháp nhằm rèn kĩ năng làm bài văn biểu cảm cho học sinh. Qua quá trình rèn luyện, trình độ học sinh có sự cải thiện rõ rệt.Hầu hết các em nắm vững kĩ năng làm văn biểu cảm biết vận dụng ngôn từ biểu cảm phù hợp, nhằm làm nổi bật tình cảm, cảm xúc chủ quan của mình. Bài viết của các em đã mang dấu ấn cá nhân tương đối rõ, có những bài thể hiện sự rung động tinh tế, phù hợp với lứa tuổi. Những bài văn biểu cảm làm tại lớp của các em đạt kết quả tương đối khả quan (đạt 85 – 95% ) trong đó 50 - 60% bài làm đạt điểm khá -giỏi.
  2. Tôi xin mạnh dạn trình bày một số việc đã tiến hành nhằm mục đích rèn kĩ năng làm văn biểu cảm cho học sinh. II, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH: Cũng như tất cả các thể loại khác, khi giảng dạy nội dung này cần làm rõ các mặt: kiến thức lí thuyết – kĩ năng thực hành. Trong đó kĩ năng thực hành đóng vai trò quan trọng bởi phân môn tập làm văn bản thân nó là một môn mang tính thực hành tổng hợp. 1, Khái niệm về văn biểu cảm Với nội dung này cần khắc sâu các ý: Văn biểu cảm (còn gọi là văn trữ tình) là kiểu văn bản có nội dung biểu đạt tư tưởng, tình cảm bộc lộ cảm xúc của người viết, thường là những ấn tượng thầm kín, sâu sắc về con người, về sự vật, về những kỉ niệm, những hồi ức khó quên trong cuộc đời mỗi con người. Vì vậy, văn biểu cảm có khả năng khơi gợi những cảm xúc chân thành ở người đọc, tạo sự đồng cảm giữa người đọc và người viết. Như vậy văn biểu cảm ra đời là để đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người khi vui, khi buồn, khi hạnh phúc hay khổ đau bao giờ con người cũng muốn được thổ lộ, giãi bày chia sẻ. Để học sinh nhớ khái niệm một cách có cơ sở, giáo viên đưa ra các ví dụ (ngoài các ví dụ SGK ) phân tích, hướng dẫn để các em hiểu phương thức biểu cảm trong ví dụ đó: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim ” ( Từ ấy – Tố Hữu ) Nêu câu hỏi : ? Đoạn thơ thể hiện tình cảm của tác giả Tố Hữu như thế nào? Trả lời: Đó là niềm sung sướng, hạnh phúc, say mê lí tưởng cách mạng của người thanh niên khi bắt gặp ánh sáng cách mạng. Giáo viên khái quát: Mục đích của văn biểu cảm là biểu hiện, thể hiện thế giới tình cảm, cảm xúc và cách đánh giá của con người đối với tình cảm của chính mình và đồng loại, với cuộc sống, thế giới xung quanh. Trong phần cung cấp kiến thức về khái niệm văn biểu cảm cần chỉ rõ: Giữa các
  3. kiểu văn bản( tự sự – miêu tả và biểu cảm ) không hoàn toàn độc lập và đối lập nhau. Ranh giới giữa các văn bản chỉ là tương đối. Học sinh thấy được sự đan xen kết hợp giữa các kiểu văn bản này nhưng vẫn phải xác định chính xác yêu cầu của mỗi kiểu văn bản và phương thức biểu đạt cho từng văn bản cụ thể. Từ đó các em có ý thức kết hợp các kiểu văn bản của mình để được một văn bản có giá trị biểu đạt phong phú phù hợp với yêu cầu giao tiếp của văn bản . Giáo viên nhấn mạnh : Văn bản biểu cảm là văn bản đặc biệt gần gũi, gắn bó mật thiết với các môn nhóm nghệ thuật. Chính vì thế, hiệu quả tác động đến thế giới tình cảm, tư tưởng của con người là rất lớn. Trên cơ sở học sinh nắm vững khái niệm văn biểu cảm, giáo viên hướng dẫn cho các em thực hành nhận biết các văn bản biểu cảm đã học trong chương trình và có thể đưa thêm một số văn bản khác để các em có cơ hội làm quen với văn biểu cảm . 2, Về đặc điểm của văn biểu cảm: Khác với văn miêu tả là nhằm mục đích tái hiện đối tượng được miêu tả - Khi cung cấp nội dung này cần phân biệt để học sinh nhận rõ văn biểu cảm với các phương thức bểu đạt gần gũi như miêu tả. Trong miêu tả, đối tượng miêu tả là con người, phong cảnh, đồ vật. Con người cũng bộc lộ tư tưởng cảm xúc nhưng đó không phải là nội dung chủ yếu của phương thức biểu đạt ấy. Ngược lại trong văn biểu cảm, người ta cũng miêu tả cảnh vật, đồ vật, con người song chủ yếu là để bộc lộ tư tưởng tình cảm. Chính vì vậy người ta không miêu tả một đồ vật, cảnh vật con người ở mức cụ thể hoàn chỉnh mà chỉ chọn những chi tiết, thuộc tính, sự vật nào có khả năng gợi cảm để bộc lộ cảm xúc tư tưởng mà thôi. Giáo viên đưa ra đoạn văn : “ Mùa xuân, cây gạo gọi đến bao nhiêu là chim ríu rít. Từ xa nhìn lại cây gạo như một tháp đèn khổng lồ: Hàng ngàn bông hoa là hàng ngàn ngọn lửa hồng tươi, hàng ngàn búp nõn là hàng ngàn ánh nến trong xanh, tất cả đều lóng lánh lung linh trong nắng. Chào mào, sáo sậu, sáo đen Đàn đàn, lũ lũ, bay đi, bay về, lượn lên lượn xuống. Chúng nó gọi nhau trò chuyện trêu ghẹo và tranh cãi nhau ồn mà vui không thể tưởng được. Ngày hội mùa xuân đấy ! ”
  4. ( Cây gạo – Vũ Tú Nam ) Yêu cầu :? Chỉ ra các yếu tố miêu tả và biểu cảm trong đoạn văn trên. - Yếu tố miêu tả :- Cây gạo như một tháp đền khổng lồ - Chào mào, sáo sậu - Biểu cảm: Cái tình của tác giả là tấm lòng đắm say, và thái độ và tình cảm trân trọng mến yêu với vẻ đẹp. Giáo viên chốt lại: Phải yêu quê hương và gắn bó với cảnh vật làng quê này đến thiết tha sâu nặng lắm nhà văn Vũ Tú Nam mới miêu tả được cảnh đẹp làm rạo rực lòng người đến như vậy. Như vậy, văn tự sự miêu tả muốn hay, người viết không chỉ có tài quan sát và thể hiện bằng các từ ngữ hình ảnh, bằng lối so sánh, ví von độc đáo mà còn phải có cái tình. Cái tình ấy có thể là tấm lòng say đắm, là thái độ tình cảm chân trọng mến yêu đối với cái đẹp, cái trong sáng, cao thượng nhưng cũng có thể là sự căm ghét, khinh bỉ đối với cái ác cái xấu cái lố lăng kệch cỡm ở đời. Không có cái tình mọi sự miêu tả dù ngôn ngữ có sắc sảo phong phú đến bao nhiêu cũng không để lại cho người đọc bất kì sự cảm nhận nào. Bài văn ấy sẽ chỉ là cái xác không hồn, không gây được xúc động. *Phân biệt biểu cảm trực tiếp và biểu cảm gián tiếp - Biểu cảm trực tiếp: Trong một văn bản, người viết công khai thổ lộ tình cảm, tư tưởng của mình trước sự vật sự việc, con người khi đó họ đang biểu cảm một cách trực tiếp. Cách biểu cảm này thường xuyên được dùng trong các tác phẩm trữ tình nhất là thơ. - Biểu cảm gián tiếp: Thái độ và tình cảm của người viết thể hiện một cách gián tiếp thông qua cách nhìn nhận sự vật, cách dùng từ ngữ ví von so sánh. Sau khi cho học sinh nắm được biểu cảm trực tiếp và biểu cảm gián tiếp cho học sinh nhận biết hiểu được biểu cảm trực tiếp và biểu cảm gián tiếp ở một số dẫn chứng cụ thể. Ví dụ 1 : “ Ông Nghị chéo đôi đũa vào mâm, bưng bát nước canh húp đánh soạt. Rồi ông vừa nhai vừa nuốt, vừa giục thằng nhỏ lấy tăm. Ông bà Nghị, mỗi người nhúng ba ngón tay vào chậu, vuốt qua hai mép một lượt, rồi cùng uống nước xỉa răng Dứt mạch diễn thuyết, ông Nghị bưng tích
  5. nước uống một hớp lớn, súc miệng òng ọc mấy cái rồi nhổ toẹt xuống nền nhà”. Nêu câu hỏi : ? Thái độ của tác giả với Nghị Quế ? - Mặc dù không thể hiện trực tiếp nhưng người đọc vẫn nhận ra được thái độ châm biếm, giễu cợt và lòng căm ghét của Ngô Tất Tố với tên Nghị Quế trọc phú và thói trưởng giả vô học của y. Đó là cách biểu cảm gián tiếp . Ví dụ 2: “ Buồn trông con nhện chăng tơ, Nhện ơi nhện hỡi, nhện chờ đợi ai ! Buồn trông chênh chếch sao mai, Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ”. (Ca dao) Học sinh có thể nhận biết ngay đây là cách biểu cảm trực tiếp của nhân vật trữ tình: Nỗi buồn cứ như dâng lên cùng cảnh vật. Dù là biểu cảm trực tiếp hay gián tiếp giáo viên cần hết sức chú ý tới các yếu tố: sự việc và con người trong văn biểu cảm. Không thể quá nghiêng về yếu tố sự vật hoặc chỉ chú trọng tới yếu tố con người. Trong 2 yếu tố này, yếu tố con người được chú ý hơn, bởi lẽ con người mới là nhân vật chính tạo nên những cảm xúc, những tình cảm trong một bài văn biểu cảm. Văn biểu cảm có quan hệ với văn tự sự, miêu tả. Chỉ có điều, trong văn biểu cảm, người viết không nhằm tả, mà thông qua kể, tả để bộc lộ cảm xúc, thái độ, tình cảm với sự việc, với con người. Kết hợp hài hoà giữa các phương thức tả, kể, biểu cảm sẽ tạo điều kiện cho sự hình thành tạo lập văn bản đạt hiệu quả cao. 3,Cách tiến hành làm bài văn biểu cảm . Trước khi hướng dẫn học sinh phương pháp tiến hành làm bài văn biểu cảm cần cho các em hiểu được một số điểm cơ bản về đề văn biểu cảm: đề văn biểu cảm thường ngắn gọn, rõ ràng, nêu ra đối tượng biểu cảm và định hướng tình cảm. Có trường hợp, đối tượng biểu cảm và định hướng tình cảm được tách bạch rạch ròi. Ví dụ : “ Cảm nghĩ về dòng sông quê hương ” - Đối tượng biểu cảm là: dòng sông quê hương. - Định hướng tình cảm là: cảm nghĩ.
  6. Cũng có trường hợp, đề văn biểu cảm chỉ nêu chung, buộc người viết phải tự xác định đối tượng biểu cảm và định hướng tình cảm. Ví dụ: “ Cánh diều tuổi thơ ” - Đối tượng biểu cảm là: Cánh diều tuổi thơ. - Từ đối tượng ấy để tìm định hướng tình cảm là: Tình yêu, nỗi nhớ dành cho một hình ảnh quen thuộc gắn bó với bao kí ức tuổi thơ, qua đó gửi gắm những ước mơ, hoài bão. *Tiến hành làm bài văn biểu cảm. + Bước 1: Xác định yêu cầu và tìm ý : Phải căn cứ vào các từ ngữ và cấu trúc của đề bài để xác định nội dung, tư tưởng, tình cảm mà văn bản cần hướng tới. Từ đó đặt câu hỏi tìm ý: ? Nội dung văn bản nói về điều gì ? Qua đó cần bộc lộ thái độ, tình cảm gì ? + Bước 2: Xây dựng bố cục. Bố cục của văn bản biểu cảm cũng bao gồm 3 phần: mở bài, thân bài, kết bài .Tuy nhiên việc sắp xếp ý để tạo thành một bố cục hoàn chỉnh phụ thuộc vào mạch cảm xúc của người viết, không thể máy móc áp đặt một kiểu nào. Nhưng dù sao thì phần mở bài và kết bài cũng thường là những câu văn nêu cảm nhận chung hoặc nâng lên thành tư tưởng, tình cảm khái quát. Các ý lớn nhỏ trong phần thân bài phải được sắp xếp hợp với diễn biến tâm lí của con người trước từng sự việc, từng đối tượng . + Bước 3: Hoàn thành văn bản. Đây là bước hết sức quan trọng. Trên cơ sở dàn bài đã xây dựng, người viết triển khai thành bài văn hoàn chỉnh. Cần lưu ý cho học sinh là trong quá trình diễn đạt phải biết kết hợp với các phương thức biểu đạt khác như miêu tả tự sự, nghị luận, đồng thời phải biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật đặc sắc như: nhân hoá, so sánh, ẩn dụ, điệp ngữ, nói quá Câu văn phải có sự biến hoá linh hoạt. Lời văn giàu cảm xúc với vốn từ ngữ giàu hình ảnh, giàu sức gợi cảm. Trong xây dựng bố cục cũng hết sức lưu ý đến các phương pháp lập ý của bài văn biểu cảm. Dàn ý trong bài văn biểu cảm không nên máy móc, rập khuôn, bởi tình cảm của con người vốn dĩ rất đa dạng, phong phú và phức tạp. Người viết phải tuỳ thuộc vào từng đối tượng biểu cảm, tuỳ