Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp tổ chức cho học sinh tự học ở nhà đối với môn Toán 6
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp tổ chức cho học sinh tự học ở nhà đối với môn Toán 6", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_to_chuc_cho_hoc_sinh_tu_ho.doc
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp tổ chức cho học sinh tự học ở nhà đối với môn Toán 6
- SÔÛ GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO PHUÙ YEÂN TRÖÔØNG THCS VAØ THPT CHU VAÊN AN Ngöôøi thöïc hieän: Mai Hoaøng Sanh Chöùc vuï: Giaùo vieân Ñôn vò: Toå Toaùn Tröôøng THCS & THPT Chu Vaên An Xuaân Laõnh, thaùng 3 naêm 2019 Trang 1
- TÓM TẮT ĐỀ TÀI: Toán học là một môn khoa học đặc biệt quan trọng, luôn gắn liền với đời sống con người, với sự phát triển xã hội. Vì vậy nó được đưa vào trường học như một công cụ cơ bản xuyên suốt quá trình từ Tiểu học đến Trung học phổ thông. Các kiến thức trong chương trình đều có mối quan hệ mật thiết với nhau. Mỗi đơn vị kiến thức, mỗi bài, mỗi chương đều rất quan trọng. Học giỏi môn toán luôn gắn liền với sự hứng thú học toán, với niềm đam mê môn học. Nhưng thực tế việc học toán và làm bài tập toán ở nhà vẫn còn một số học sinh xem nhẹ nên chất lượng học tập môn toán của học sinh lớp 6C, 6D ở trường THCS và THPT Chu Văn An chưa cao. Qua kết quả khảo sát đầu năm cho thấy đa số học sinh của lớp xếp loại trung bình – yếu. Nhiều học sinh chưa nắm vững kiến thức đã học ở tiểu học, cũng như tiếp thu kiến thức mới được cung cấp còn chậm, chưa vận dụng được kiến thức mới vào việc giải bài tập có liên quan. Các chuyên đề khắc phục học sinh yếu, kém chưa tìm ra được biện pháp hữu hiệu nhằm giảm số lượng và tỉ lệ học sinh yếu kém của môn học. Vì vậy, để nâng cao chất lượng học toán cho học sinh, nhất định giáo viên phải tạo được sự hứng thú trong từng bài học, kích thích trí tò mò về những nội dung mới nhằm giúp các em nắm vững kiến thức, hiểu sâu bài học hơn nên tôi mạnh dạn nghiên cứu việc tổ chức cho học sinh tự học ở nhà đối với môn toán lớp 6 để nâng cao chất lượng giáo dục và cũng nhằm rút kinh nghiệm cho bản thân để việc giảng dạy môn toán được tốt hơn trong việc đổi mới PPDH ở trường THCS. Nghiên cứu được tiến hành trên 2 nhóm tương đương là lớp 6D (lớp thực nghiệm) và lớp 6C (lớp đối chứng) trường THCS và THPT Chu Văn An. Kết quả đã có ảnh hưởng rõ rệt đến kết quả học tập của học sinh. Lớp 6D (lớp thực nghiệm) đã đạt kết quả học tập cao hơn so với lớp 6C (lớp đối chứng). Kết quả cho thấy tác động có ảnh hưởng lớn đến hứng thú và kết quả học tập. Điều này chứng minh rằng việc vạch ra phương pháp tổ chức cho học sinh tự học ở nhà đối với môn toán lớp 6 ở trường THCS và THPT Chu Văn An đã làm tăng kết quả học tập của các em. Trang 3
- Một số giáo viên chưa thật sự chịu khó, tâm huyết với nghề, chưa thật sự “giúp đỡ” các em thoát khỏi yếu kém. Từ đó các em cam chịu, dần dần chấp nhận với sự yếu kém của mình, không có ý chí vươn lên. Một số giáo viên chưa gây được hứng thú cho môn học của mình. c) Về phía phụ huynh: Còn một số phụ huynh: Thiếu quan tâm đến việc học tập ở nhà của con em. Phó mặc mọi việc cho nhà trường, thầy cô. Gia đình học sinh gặp nhiều khó khăn về kinh tế hoặc đời sống tình cảm khiến trẻ không chú tâm vào việc học tập. Một số cha mẹ quá nuông chiều con cái, quá tin tưởng vào chúng nên việc kiểm tra bài cho con chưa thật sự chú trọng Qua hiện trạng trên, tôi quyết định chọn đề tài “Phương pháp tổ chức cho học sinh tự học ở nhà đối với môn toán lớp 6 ” nhằm tìm ra giải pháp giảm số lượng và tỉ lệ học sinh yếu, kém ở các lớp 6C, 6D. 3) Giải pháp thay thế: Tổ chức, hướng dẫn cho học sinh tự học ở nhà. Sách là nguồn tri thức quan trọng cho học sinh, nó là một hướng dẫn cụ thể để đạt lượng liều lượng kiến thức cần thiêt của môn học, là phương tiện phục vụ đắc lực cho GV và học sinh. Do đó tự học qua sách giáo khoa, sách bài tập và sách tham khảo là vô cùng quan trọng để học sinh tham gia vào quá trình nhận thức trên lớp và củng cố khắc sâu ở nhà. Để học sinh tự nghiên cứu trước SGK ở nhà thì GV không nên chỉ đơn giản là nhắc các em đọc trước bài mới mà cần nêu cụ thể câu hỏi mà khi đọc xong bài mới các em có thể trả lời được. Đó là cách giao nhiệm vụ cụ thể giúp học sinh đọc sách giao khoa có mục tiêu cụ thể rõ ràng. Đối với những nội dung mà sách giáo khoa đã có chi tiết đầy đủ thì không nên ghi lên bảng cho hs chép mà cho các em về tự đọc trong SGK, cách làm này vừa tiết kiệm thời gian vừa tạo thói quen đọc sgk cho học sinh và làm cho bài giảng không bị nhàm chán. 4) Vấn đề nghiên cứu: Phương pháp tổ chức cho học sinh tự học ở nhà đối với môn toán ở các lớp 6C, 6D ở trường THCS và THPT Chu Văn An có làm tăng hứng thú và kết quả học tập của các em hay không ? Có: Phương pháp này giúp giáo viên tiếp cận trực tiếp với từng đối tượng học sinh; từ học sinh yếu, kém đến học sinh trung bình hay học sinh khá giỏi để giáo viên sẽ tổ chức hướng dẫn về nhà từng nội dung bài giảng phù hợp .Có như vậy thì tất cả mọi đối tượng học sinh đều phát huy khả năng học tập của mình như vậy kết quả học tập mới cao. Trang 5
- III. PHƯƠNG PHÁP Đề tài “Phương pháp tổ chức cho học sinh tự học ở nhà đối với môn toán lớp 6”, tôi đã nghiên cứu trong năm học 2018 - 2019 và đã áp dụng vào giảng dạy trên lớp. Trong quá trình nghiên cứu, áp dụng, tôi đã sử dụng phương pháp thống kê, phân loại và phương pháp so sánh kết quả thực nghiệm (các phiếu học tập, các bài kiểm tra) của hai lớp 6C và lớp 6D. Bên cạnh đó tôi đã so sánh, đối chiếu với phương pháp giảng dạy ở những năm học trước để hoàn chỉnh đề tài này với mong muốn có thể tiếp tục áp dụng vào giảng dạy cho những năm học sau. Qua đề tài này, tôi tự trang bị cho mình về phương pháp giảng dạy đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp trong dạy học hiện nay. 1) Khách thể nghiên cứu: Đối tượng tham gia thực nghiệm và đối chứng của đề tài này là học sinh lớp 6A và lớp 6D, ở đầu năm học 2018 -2019 và cuối HKI năm học 2018 - 2019. Các em học sinh trong hai lớp này đều đã có phương pháp học tập tích cực hơn. Nhiều em có ý thức học tập khá tốt, chịu khó suy nghĩ tìm tòi khám phá. Đồ dùng sách vở tư liệu cần thiết các em đã chuẩn bị đầy đủ, đó là 2 lớp có sự tương đương về trình độ và sĩ số lớp. Hơn nữa đây là 2 lớp được tôi trực tiếp giảng dạy trong quá trình nghiên cứu. Những yếu tố đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng của tôi. Tôi chọn lớp 6D làm lớp thực nghiệm, lớp 6C làm lớp đối chứng. Học sinh hai lớp này có thái độ và kết quả học tập tương đương nhau. Bảng 1: Giới tính và thành phần dân tộc của học sinh lớp 6C, 6D Trường THCS và THPT Chu Văn An (Năm học: 2018 – 2019) Số học sinh các nhóm Dân tộc Nhóm Tổng số Nam Nữ Kinh Chăm và Bana Thực nghiệm (6D) 35 18 17 20 15 Đối chứng (6C) 34 18 16 20 14 2) Thiết kế nghiên cứu. Trong đề tài này tôi đã thiết kế nghiên cứu bằng cách dựa trên cơ sở kiến thức lý thuyết về phương pháp dạy học tích cực và các kiến thức lý thuyết về các kỹ thuật dạy học mới và đã áp dụng trong thực tiễn giảng dạy. Thời gian thực nghiệm để kiểm chứng diễn ra trong vòng 10 tuần. Dùng bài kiểm tra đầu năm làm bài kiểm tra trước tác động, kết quả điểm trung bình 2 lớp có sự khác nhau do đó tôi sử dụng phép kiểm chứng T-test độc lập để kiểm chứng sự chênh lệch giữa điểm trung bình của 2 nhóm trước khi tác động. Trang 7
- d) Chia nhóm học tập gồm các đối tượng khác nhau để các em giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. e) Giáo viên phải gần gũi học sinh, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của các em, giúp các em mạnh dạn trao đổi bài với nhau. Hướng dẫn học sinh dùng sách bài tập, sách tham khảo để mở rộng nâng cao tầm hiểu biết nhưng không được lạm dụng chúng. g) Giáo viên biên soạn tài liệu để cho học sinh chuẩn bị bài ở nhà với kiến thức căn bản, trọng tâm mà học sinh đã được học ở trong bài. Qua đó đề ra những bài tập vừa sức với trình độ giúp các em rèn luyện và củng cố lại kiến thức bị hỏng, cũng như ra những bài tập rèn luyện vừa sức với trình độ của nhóm học sinh này, giúp các em theo kịp chương trình kiến thức mới đang được học. Bên cạnh đó, hàng tuần giáo viên còn sắp xếp thời gian phụ đạo riêng cho những đối tượng học sinh yếu, kém và ghi lại kết quả rèn luyện qua hàng tuần của học sinh. Kết hợp chặt chẽ với gia đình phụ huynh có học sinh yếu kém để nhắc nhở việc học tập ở nhà của các em. 3.2.2 Hướng dẫn tự học cho học sinh: Việc bồi dưỡng kiến thức cơ bản là một công việc cực kỳ quan trọng vì kiến thức cơ bản là nền tảng quyết định đến khả năng học tập của các em, đặc biệt môn Toán càng quan trọng hơn vì lượng kiến thức của bộ môn Toán có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Do đó trong quá trình dạy học cần rèn luyện giúp HS nắm vững các kiến thức cơ bản từ đó có cơ sở để giải các bài toán có liên quan. Thì việc “Hướng dẫn học sinh tự học” là một khâu không thể thiếu trong các phương pháp dạy học của một tiết học. Nó được thể hiện xuyên suốt trong một tiết dạy. ✓ Một là thể hiện ngay ở phần kiểm tra bài cũ và bài mới. ✓ Hai là thể hiện ở phần củng cố từng phần, từng nội dung. ✓ Ba là thể hiện ở phần kết thúc bài dạy hướng dẫn học sinh về nhà tự học nội dung bài vừa học và bài sắp học. a) Đối với bài vừa học: Chọn câu hỏi và bài tập theo chuẩn kiến thức kĩ năng, theo cấp độ. Hướng dẫn HS cách học sao cho hiệu quả. Ở nhà nên học và nắm vững lí thuyết, đối với học sinh yếu kém yêu cầu giải lại các bài tập trên lớp để thật sự chiếm lĩnh kiến thức. Tránh những trường hợp gật gù trên lớp rồi cho rằng mình đã nắm vững rồi về nhà bỏ qua Đối với học sinh khá, giỏi có thể cho thêm vài bài tập nâng cao, để giúp học sinh cảm thấy hứng thú, ham học, không gây căn thẳng quá rồi từ từ các em thấy chán nãn, nặng nề khi nghĩ đến môn toán. Đặc biệt mọi nhiệm vụ được giao cho các em cần được kiểm tra cụ thể, các sai lầm mắc phải luôn được phân tích và sửa chữa. Khuyến khích, động viên đúng lúc khi các em đạt kết quả, đồng thời cũng phải phân tích, phê phán đúng mức thái độ vô trách nhiệm hoặc lơ là đối với nhiệm vụ học tập được giao. Trang 9
- -Ví dụ 2: Qua bài học “ PHÉP CHIA PHÂN SỐ” GV có thể bồi dưỡng cho học sinh khá giỏi kiến thức cơ bản về phân số bằng các bài tập nâng cao: 4 1 7 3 1 4 3 7 Tính: a) C : . b) D . : 5 3 5 4 5 7 5 5 Gợi ý câu a GV:Yêu cầu học sinh nêu thứ tự thực hiện phép toán HS: Thực hiện trong ngoặc trước. GV:Trong dấu ngoặc là phép toán gì ? Cách thực hiện của chúng ra sao ? 4 1 7 4 7 HS: trả lời C : . : 5 3 5 5 35 GV: Trong quá trình thực hiện các phép tính ta cũng cần chú ý đến việc rút gọn để giúp cho bài toán trở nên dễ tính hơn. GV: Để thực hiện phép chia hai phân số ta làm như thế nào ? 4 1 7 4 7 4 1 4 HS: trả lời C : . : : .( 5) 4 5 3 5 5 35 5 5 5 Gợi ý câu b. GV: Yêu cầu học sinh nêu thứ tự thực hiện phép toán ? HS: Thực hiện trong ngoặc trước. GV: Hãy cho biết thứ tự ưu tiên cho dấu ngoặc nào trước ? GV: Trong dấu ngoặc gồm những phép toán nào ? Thứ tự thực hiện của chúng ra sao ? 3 1 4 3 7 3 1 4 3 5 3 1 4 3 3 1 1 HS: trả lời. D . : . . . . 4 5 7 5 5 4 5 7 5 7 4 5 7 7 4 5 7 GV: Để cộng phân số không cùng mẫu ta làm như thế nào ? HS: Ta quy đồng cho cùng một mẫu sau đó cộng các tử với nhau và giữ nguyên mẫu. Giải: 4 1 7 4 7 4 1 4 a) C : . : : .( 5) 4 5 3 5 5 35 5 5 5 3 1 4 3 7 3 1 4 3 5 3 1 4 3 3 1 1 3 2 3 b) D . : . . . . . 4 5 7 5 5 4 5 7 5 7 4 5 7 7 4 5 7 4 35 70 Trong quá trình giải bài toán GV cần đặt ra các câu hỏi có liên quan đến kiến thức trọng tâm của dạng toán để áp dụng giải bài tập. Các bài toán trên chúng ta đã sử dụng các kiến thức nào để giải ? Để nhằm giúp HS khắc phục các kiến thức. Qua bài toán trên nhằm rèn khả năng tính toán cho HS, giúp HS nắm vững thứ tự thực hiện các phép tính trong toán đồng thời cũng rèn luyện khả năng tư duy cho các em. Đặc biệt trong quá trình hướng dẫn về nhà GV cần đặt nhiều câu hỏi gợi ý cho sinh nhằm giúp cho các em nắm vững kiến thức. Trang 11
- GV: Em có nhận xét gì về mẫu của 2 phân số ( câu a ) HS: Có cùng mẫu ( cùng số ) nhưng chỉ khác nhau về dấu. GV: Vậy để thực hiện phép cộng 2 phân số đó ta làm như thế nào ? HS: Biến mẫu âm thành mẫu dương ( phân số thứ 2 ) sau đó áp dụng quy tắc cộng 2 phân số cùng mẫu. 1 7 1 7 8 a) 3 3 3 3 3 Riêng câu b, GV có thể cho HS nhắc lại quy tắc cộng 2 phân số không cùng mẫu trước khi thực hiện. HS: nhắc lại quy tắc. GV có thể đặt thêm nhiều câu hỏi gợi ý ( các bước quy đồng mẫu ) cho HS. 1 5 2 5 3 1 b) 6 12 12 12 12 4 Qua những bài toán như thế này nhằm giúp cho HS nắm lại các kiến cơ bản đặt biệt là những HS yếu kém nên GV cần thường xuyên đặt nhiều câu hỏi gợi ý, từ đó HS mới có thể giải được những bài toán cao hơn. - Học sinh trung bình 1 6 x 1 3 Ví dụ 3:Tìm x biết a) x b) 5 7 2 3 4 Gợi ý GV: Để tìm giá trị của x ta làm như thế nào ? 1 6 HS: Chỉ cần tính tổng của . 5 7 GV: Để tính tổng trên ta làm như thế nào ? HS: Quy đồng cùng mẫu, sau đó lấy tử cộng tử và giữ nguyên mẫu. Giải: 1 6 7 30 23 a)x x x 5 7 35 35 35 Đối với HS trung bình đặt các câu hỏi dễ hiểu, gợi ý các chi tiết rõ ràng để các em dễ nắm được cách giải nội dung bài tập một cách hợp lí hơn. Câu b tương tự như câu a. x 1 3 x 4 9 x 5 5 b) x 2 3 4 2 12 12 2 12 6 Qua bài toán này nhằm giúp cho HS vận dụng được các kiến thức cộng 2 phân số và tùy thuộc vào đối tượng giáo viên có thể đặt câu hỏi gợi ý thêm cho HS. Trang 13
- *Bồi dưỡng năng lực phân tích, tổng hợp và so sánh: Nhằm giúp HS từng bước tăng khả năng tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận và sáng tạo trong giải toán. Ví dụ 5: Một người mang bán một sọt cam. Sau khi bán 2 số cam và 1 quả thì số 5 cam còn lại là 50 quả. Tính số cam mang bán. Phân tích bài toán ( Vẽ sơ đồ đoạn thẳng ) 1 quả 2 số cam 50 quả 5 GV: Dựa vào sơ đồ thì số sọt cam được chia làm mấy phần ? HS: 5 phần bằng nhau. GV: Sau khi bán hết 2 số cam trong sọt thì số cam trong sọt còn lại bao nhiêu quả và 5 chiếm bao nhiêu phần Cam trong sọt ? HS: 51 quả chiếm 3 số cam trong sọt. 5 3 GV: Để biết số cam mang bán là bao nhiêu ta làm như thế nào ? HS: là 51: 5 Giải: 3 số cam người đó có là 50 + 1 = 51 ( quả ) 5 Vậy số cam mang đi bán là 51 : 3 = 85 (quả) 5 *Ngoài ra giáo viên cũng có thể tổ chức cho học sinh tự học ở nhà bằng những hình thức khác như: - Hướng dẫn cho học sinh về nhà củng cố kiến thức bằng bài tập trò chơi ô chữ Ô 1 (8 chữ cái): Tên gọi của đường viền sau là gì ? Ô 2 ( 10 chữ cái): Tên nhà toán học Việt nam đầu tiên nhận giải Fields ? Ô 3 ( 9 chữ cái): Điểm cách đều hai đầu mút của đoạn thẳng gọi là Ô 4 (3chữ cái): Mỗi điểm trên đường thẳng là chung của hai tia đối nhau. Ô 5 (5 chữ cái): Mỗi đoạn thẳng có một Ô 6 (8 chữ cái): Hai đường thẳng không có điểm chung gọi là hai đường thẳng Ô 7 (8 chữ cái): Hai đường thẳng không trùng nhau còn gọi là hai đường thẳng « ch÷ to¸n häc 1 H? ?× N? H? T? R? ß? N? 2 N? G? ¤? B? ¶? O? C? H? ¢? U? 3 T? R? U? n? g? Đ? ?I Ể? M? 4 G? Ó? C? 5 Đ? Ộ? D? À? ?I 6 S? O? N? G? S? O? N? G? 7 P? H? Â? N? B? ?I Ö? T? Trang 15
- Những vấn đề giáo viên cần lưu ý + Từ nhóm 4 em trở lên, phải cử 1 nhóm trưởng (HS khá - giỏi, có uy tín) và một thư ký (HS viết rõ ràng nhanh nhẹn). Có thể yêu cầu một vài học sinh trả lời cá nhân mình làm gì và cả nhóm sẽ làm. + Trong thời gian đầu, GV hướng dẫn cụ thể cho các nhóm hoạt động ( tập huấn cho nhóm trưởng và thư ký). Có nhận xét, điều chỉnh bổ sung cách làm của từng nhóm và rút kinh nghiệm chung. Chú ý động viên khích lệ. + Khi tiến hành hoạt động nhóm, GV phải điều chỉnh tư thế ngồi cho các em để đảm bảo sự phát triển về thể chất khắc phục cách ngồi quay về sau, quẹo người về sau mà chân vẫn giữ như cũ. Khi ra hoạt động ngoài trời phải đảm bảo an toàn, trật tự. Giám sát hoạt động chung của tất cả các nhóm của lớp (có thể bằng ánh mắt cử chỉ ). + Phải thường xuyên chú ý HS yếu kém và biện pháp giúp đỡ để các em cùng tham gia giải quyết nhiệm vụ của nhóm. + Chọn những vấn đề, bài tập thích hợp (không quá khó, cũng không quá dễ). + Đánh giá, cho điểm, động viên và tuyên dương kịp thời cá nhân, tập thể (chú ý HS yếu). + Khi điều khiển học sinh trình bày kết quả nhóm giáo viên cần tạo điều kiện để các nhóm tự đánh giá, góp ý, để phát triển tư duy độc lập cho học sinh. 4) Tiến hành thực nghiệm: Thời gian tiến hành thực nghiệm vẫn tuân theo kế hoạch dạy học của nhà trường và theo thời khóa biểu để đảm bảo tính khách quan. 5) Đo lường: Cho 2 lớp cùng làm một bài kiểm tra . 6) Kết quả: Dùng bài kiểm tra đầu năm làm bài kiểm tra trước tác động. Bài kiểm tra sau tác động là bài kiểm tra cuối kỳ I. Trang 17