Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng toàn diện bậc Tiểu học

doc 19 trang sangkien 31/08/2022 4500
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng toàn diện bậc Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_chat_luong_toan_dien_bac_tieu.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng toàn diện bậc Tiểu học

  1. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Thế kỷ XXI, thế kỷ của khoa học kỹ thuật phát triển không ngừng.Yêu cầu chủ nhân tương lai của thế kỷ XXI phải là những con người có năng lực, trí tuệ cao. Để đào tạo những con người đáp ứng yêu cầu của xã hội trong thời kỳ mới, đó là nhiệm vụ của ngành giáo dục, trong đó bậc Tiểu học là bậc học đóng vai trò làm nền móng. Nghị quyết TW II khoá VIII đã nêu rõ mục tiêu giáo dục tiểu học đến năm 2020 là “Nâng cao chất lượng toàn diện bậc tiểu học”.Cùng với những môn học khác, môn Toán ở tiểu học giữ một vị trí hết sức quan trọng trong việc hình thành nhân cách, phát triển năng lực trí tuệ cho học sinh. Nó trang bị cho học sinh những kiến thức cần thiết nhằm phục vụ đời sống và phát triển của xã hội. Môn Toán ở lớp 1 và lớp 2 là cơ sở ban đầu có tính quyết định cho việc dạy học Toán sau này của học sinh. Để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền giáo dục, chương trình giáo dục tiểu học đã thực hiện đổi mới sách giáo khoa và nội dung chương trình dạy học ở các lớp, các môn học nói chung và môn Toán lớp 2 nói riêng. Năm học này là năm học thứ năm thực hiện chương trình này. Để thực hiện tốt mục tiêu của môn Toán, người giáo viên phải thực hiện đổi mới các phương pháp dạy học, sao cho học sinh là người chủ động nắm bắt kiến thức của môn học một cách tích cực, sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề đặt ra trong bài học. Từ đó chiếm lĩnh nội dung mới của bài học, môn học. Để nâng cao chất lượng dạy học, nâng cao hiệu quả đào tạo của giáo dục, thì định hướng chung của đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học nói chung và môn Toán nói riêng, là dạy học trên cơ sở tổ chức và hướng dẫn các hoạt động học tập tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh, kết hợp với mặt tích cực của các phương pháp truyền thống. Song việc vận dụng linh hoạt, phù hợp với phương pháp dạy học là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng giờ dạy. Vì vậy việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học Toán 2 phải đảm bảo yêu cầu sau: + HS phải tham gia các hoạt động học tập một cách tích cực, hứng thú, tự tin và tự nhiên. Tạo cho học sinh tính tự giác, tích cực trong học tập. + Giáo viên phải tổ chức hướng dẫn nhẹ nhàng dưới sự trợ giúp đúng mức, đúng lúc của sách giáo khoa, đồ dùng dạy học Toán, để từng học sinh (từng nhóm học sinh) tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề của bài học, tự chiếm lĩnh nội dung kiến thức và có thể vận dụng được kiến thức đó vào luyện tập thực hành, giúp cho việc phát triển năng lực cá nhân học sinh. + Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hiện đại hoá. Thay thế các phương pháp dạy học đơn điệu ít tác dụng bằng các phương tiện kĩ thuật hiện đại. Giúp học sinh hứng thú trong học tập, hiểu sâu, nhớ lâu kiến thức. 1
  2. Thực hiện tốt chủ đề năm học: Tiếp tục “ Ổn định - phát triển - hội nhập ” trên cơ sở “Hiện đại - tăng tốc - bền vững” góp phần đáp ứng yêu cầu đổi mới nội dung sách giáo khoa và phương pháp dạy học. Ban giám hiệu Trường Tiểu học Phạm Thận Duật đã chỉ đạo toàn bộ các khối đặc biệt là khối 2 nghiên cứu và thực hiện chuyên đề: “ Dạy học Toán lớp 2 như thế nào để đáp ứng yêu cầu đổi mới.” Để tìm ra những biện pháp tối ưu nhất góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của môn học. 2
  3. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lớ luận Trong dạy học Toán ở phổ thông nói chung, ở tiểu học nói riêng thì môn Toán lớp 2 có vị trí vô cùng quan trọng, khi học Toán học sinh phải tư duy một cách tích cực và linh hoạt huy động tích hợp các kiến thức và khả năng đã có vào tình huống khác nhau. Vì vậy có thể coi việc học Toán là một trong những biểu hiện năng động nhất của hành động trí tuệ học sinh, cũng qua việc dạy học Toán giáo viên giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kỹ năng suy luận lôgic, khêu gợi và tập dượt khả năng quan sát, phỏng đoán, tìm tòi. Có thể nói : Dạy học toán không chỉ dạy tri thức và kỹ năng, mà còn hình thành và phát triển ở học sinh phương pháp năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề. Vậy nên, khi giảng dạy giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với đặc điểm nhận thức của lứa tuổi học sinh, để có những tác động tích cực đến quá trình lĩnh hội tri thức của trẻ. Tri giác của trẻ em lứa tuổi từ 6 – 8 tuổi thường gắn với hoạt động. Về tư duy, thì tư duy trực quan hành động chiếm ưu thế. Do vậy, người giáo viên thường xuyên có biện pháp kích thích học sinh học tập như: khen ngợi, tuyên dương, thưởng, .tạo hứng thú cho học sinh phát triển ghi nhớ các biểu tượng, khái niệm kiến thức đến từ cả năm giác quan: thị giác ( nhìn), xúc giác (sờ, mó), vị giác(nếm), khứu giác (ngửi), thính giác (nghe) từ đó giúp học sinh tiếp thu tri thức hiểu bài nhanh, khắc sâu, nhớ lâu kiến thức bài học. a. Thuận lợi - Qua thời gian nghiên cứu sách giáo khoa và đổi mới nội dung chương trình, phương pháp dạy học. Học sinh đã làm quen với học Toán qua chương trình học lớp 1. Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, ham học hỏi nên việc tiếp cận với chương trình mới, với việc đổi mới phương pháp và phương tiện dạy học hiện đại khá nhanh chóng, thành thạo. - Giáo viên được trang bị đầy đủ sách giáo khoa, sách giáo viên, sách tham khảo và đặc biệt là đồ dùng dạy học môn Toán lớp 2 khá đầy đủ, đẹp, phong phú về thể loại. - Bộ đồ dùng của giáo viên và học sinh giống nhau, khi sử dụng rất thuận lợi. - Sự chỉ đạo sâu sát của Phòng Giáo dục, Ban giám hiệu nhà trường,Tổ chuyên môn tích cực giúp giáo viên khối 2 đi đúng chương trình nội dung môn toán lớp 2. 3
  4. - Cơ sở vật chất nhà trường được trang bị đầy đủ đặc biệt là đồ dùng dạy học hiện đại như máy chiếu projecteur, cũng tạo điều kiện thuận lợi giúp giáo viên, học sinh hoàn thành tốt việc dạy và học. - Học sinh khối 2 đều được học 2 buổi /ngày. Vì vậy có nhiều thời gian cho việc luyện tập thực hành ở buổi 2. - Sự quan tâm của phụ huynh học sinh cũng góp phần nâng cao chất lượng các môn học nói chung và môn toán nói riêng. b. Khó khăn - Giáo viên: Một số giáo viên việc sử dụng đồ dùng dạy học còn hạn chế, có đồng chí ngại dùng, còn lúng túng, vụng về khi sử dụng, nên hiệu quả tiết dạy chưa cao. - Học sinh: Ở độ tuổi các em dễ tiếp thu nhưng lại chóng quên dẫn đến việc học tập chưa cao. Bên cạnh đó còn một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến con em mình, còn có quan điểm “Trăm sự nhờ nhà trường, nhờ cô”cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của học sinh. Chính vì vậy “ Dạy học Toán lớp 2 như thế nào để đáp ứng yêu cầu đổi mới” là một vấn đề bức xúc, cần thiết đặt ra đối với mỗi thầy cô giáo và với người quản lý chỉ đạo. Để giáo viên tự tin trong giảng dạy, học sinh chủ động trong học tập, học sinh tự tìm kiếm kiến thức mới. Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn Toán nói chung và Toán lớp 2 nói riêng. Đáp ứng yêu cầu đổi mới của ngành giáo dục, theo kịp sự phát triển nhanh chóng của xã hội. Những vấn đề trăn trở và tồn tại trên đây là động cơ thúc đẩy chúng tôi nghiên cứu thực tế giảng dạy, tìm tòi tham khảo sách, báo, tạp chí để nghiên cứu chuyên đề: “ Dạy học Toán lớp 2 như thế nào để đáp ứng yêu cầu đổi mới.” 2. Thực trạng dạy học môn Toán lớp hai ở Tiểu học 2.1. Phương pháp trực quan: Phương pháp trực quan trong dạy học Toán ở tiểu học nói chung và dạy học Toán 2 nói riêng là phương pháp đặc biệt quan trọng, phương pháp này đòi hỏi giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh hoạt động trực tiếp trên các sự vật cụ thể, dựa vào đó nắm bắt được kiến thức kĩ năng của môn Toán. Đối với lớp 2 khi sử dụng phương pháp này, học sinh cần phải huy động các giác quan như tay cầm, mắt nhìn, tai nghe tức là học sinh phải “làm việc bằng tay” trên các đồ dùng học tập để nhận biết phát hiện kiến thức mới và 4
  5. điều quan trọng là trực quan phải là các vật thực, tranh ảnh, mô hình hay que tính, quả cam Ví dụ: Khi dạy bài “11 trừ đi một số ” Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng các bó que tính và que tính rời (hoặc quan sát tranh vẽ trong SGK) để học sinh tự nêu được chẳng hạn: Có một bó một chục que tính và một que tính, tức là 11 que tính lấy bớt đi 5 que tính thì còn lại mấy que tính? Tức là 11 – 5 = ? Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện các thao tác trên que tính, để nêu và làm được chẳng hạn: Để bớt đi 5 que tính, lúc đầu ta bớt đi một que tính rời (11 – 1 = 10) sau đó, phải tháo bó que tính ra để có 10 que tính rời, lấy bớt tiếp 4 que tính nữa còn lại 6 que tính (10 – 4 = 6). Vậy 11 – 5 = 6. Học sinh sẽ tìm được kết quả của các phép tính trừ: 11 – 2, 11 – 3, 11 – 4, 11 – 5, 11 – 6, 11 – 7, 11 – 8, 11 – 9. Sau khi học sinh đã tự tìm được kết qủa các phép tính trừ nêu trên, giáo viên tổ chức cho học sinh ghi nhớ các công thức trong bảng trừ của bài 11 trừ đi một số. 2.2. Phương pháp gợi mở vấn đáp: Phương pháp gợi mở vấn đáp là phương pháp dạy học không trực tiếp đưa ra những kiến thức hoàn chỉnh mà sử dụng một hệ thống câu hỏi để hướng dẫn học sinh suy nghĩ và lần lượt trả lời từng câu hỏi, từng bước tiến dần đến kết luận cần thiết, giúp học tìm ra những kiến thức mới. Ví dụ: Khi dạy bài: Phép nhân Giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi: + Mỗi tấm bìa có mâý chấm tròn? ( 2 chấm tròn) + Có mấy tấm bìa? ( 5 tấm bìa) + Hai chấm tròn được lấy mấy lần (2 chấm tròn được lấy 5 lần). Học sinh tính được tổng số chấm tròn sau đó nhận xét được 2 được cộng 5 lần và viết được phép nhân 2 x5 = 10. Đặc biệt, khi sử dụng phương pháp này giờ học sẽ sôi nổi hơn phát huy được khả năng học tập của từng học sinh, rèn luyện được cách suy nghĩ, cách diễn đạt bằng lời, phát triển các năng lực tư duy của học sinh. Dạy toán 2 còn giúp học sinh nắm chắc các kiến thức và kĩ năng cơ bản nhất, thông dụng nhất hình thành được phương pháp học tập, đặc biệt là phương pháp tự học. Thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến thức đã học. Thường xuyên phải huy động kiến thức đã học để phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức mới. Đặt kiến thức mới trong mối quan hệ với các kiến thức đã học. 5
  6. Ví dụ: Khi dạy học phép cộng có nhớ trong phạm vi 100, chương trình đã cấu tạo từng bộ ba các bài học dạng 9 + 5, 49 + 5, 49 + 25 để học sinh vận dụng ngay kiến thức của tiết học trước trong và các tiết học tiếp liền. Khi dạy phép trừ có nhớ trong phạm vi 100 mỗi công thức cần ghi nhớ đều được đặt trong mối quan hệ với các kiến thức đã học. Chẳng hạn: Với 11 – 9 cần được đặt trong mối quan hệ với phép cộng 9 + 2 = 11, 2 + 9 = 11. Và cách tìm một số hạng khi biết tổng và số hạng kia: 9 = 11 – 2; 2 = 11 – 9. Đồng thời trong quá trình sử dụng các đồ dùng học tập để tìm ra 11 – 9 = 2 học sinh sử dụng các kiến thức đã học như 11 – 1 = 10; 10 – 8 = 2. 2. 3. Phương pháp giảng giải minh hoạ: Phương pháp giảng giải minh hoạ trong dạy học Toán là phương pháp dùng lời nói để giải thích tài liệu Toán, kết hợp các phương tiện trực quan để hỗ trợ cho việc giải thích. Tuy nhiên với phương pháp này GV cần nói ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu. 2.4. Phương pháp thực hành luyện tập: Phương pháp thực hành luyện tập là phương pháp GV tổ chức cho HS luyện tập các kiến thức kĩ năng của HS thông qua các hoạt động thực hành luyện tập. Hoạt động thực hành luyện tập chiếm hơn 50% tổng thời lượng dạy học ở lớp 2. Vì vậy, phương pháp này được sử dụng thường xuyên trong các tiết dạy như học kiến thức mới, trong các tiết ôn tập, luyện tập. Nhiệm vụ chủ yếu của dạy học thực hành luyện tập là củng cố kiến thức và kĩ năng cơ bản của chương trình, rèn luyện các năng lực thực hành, giúp HS nhận ra rằng: Học không chỉ để biết mà học còn để làm, để vận dụng. Ví dụ: Khi dạy bài: Đường gấp khúc, độ dài đường gấp khúc. Học sinh luyện tập làm việc cá nhân với bài 1: Nối các điểm để có đường gấp khúc gồm 2 đoạn thẳng, 3 đoạn thẳng. Qua đó giúp học sinh củng cố kiến thức về vẽ đường gấp khúc có 2 đoạn thẳng từ 3 điểm, vẽ đường gấp khúc có 3đoạn thẳng từ 4 điểm. Hoặc ở bài 4 HS được thực hành tính độ dài đoạn dây đồng được uốn thành hình tam giác có 3 cạnh bằng nhau và bằng 4cm. Từ đó các em củng cố và khắc sâu cách tính độ dài đường gấp khúc với 2 cách: Cách 1: Làm bằng phép tính cộng 4 + 4 + 4= 12(cm), Cách 2: Làm bằng phép tính nhân 4 x 3= 12(cm) . 6