Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp dạy tiết luyện tập Toán 6
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp dạy tiết luyện tập Toán 6", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_phuong_phap_day_tiet_luyen_tap.docx
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp dạy tiết luyện tập Toán 6
- MỤC LỤC Trang 1. Cơ sở đề xuất giải pháp .1 - 5 1.1 Sự cần thiết hình thành giải pháp 3 - 5 1.2 Tổng quan các vấn đề liên quan đến giải pháp 5 1.3 Mục tiêu của giải pháp 5 -7 1.4 Các căn cứ đề xuất giải pháp 7 1.5 Phương pháp thực hiện .7 1.6 Đối tượng và phạm vi áp dụng 7 2. Quá trình hình thành và nội dung giải pháp 7 – 20 2.1 Quá trình hình thành .7 - 9 2.2 Nội dung của giải pháp mới hiện nay .9 - 20 3. Hiệu quả giải pháp .20 - 21 4. Kết luận và đề xuất, kiến nghị 22 - 23 4.1 Kết luận 22 4.2 Đề xuất, kiến nghị 23 1
- hoạt. Hệ thống bài tập tôi đưa ra từ dễ đến khó, bên cạnh đó còn có những bài tập nâng cao dành cho học sinh giỏi được lồng vào các tiết luyện tập. Lượng bài tập cũng tương đối nhiều nên các em có thể tự học, tự chiếm lĩnh tri thức thông qua hệ thống bài tập áp dụng này, điều đó giúp các em hứng thú học tập hơn rất nhiều. 1.2 Tổng quan các vấn đề liên quan đến giải pháp Tiết luyện tập toán có thể được cấu trúc theo nhiều phương án khác nhau tùy theo chủ ý của mỗi người. Ở đây tôi xin đưa ra hai giải pháp: GIẢI PHÁP 1: a) Bước 1 : Nhắc lại một cách có hệ thống các nội dung lý thuyết đã học (định nghĩa, định lí, quy tắc, công thức, nguyên lí giải toán ). Sau đó có thể mở rộng phần lý thuyết ở mức độ phổ thông trong chừng mực có thể ( thông qua phần kiểm tra miệng ở đầu tiết học ) b) Bước 2 : Cho học sinh trình bày lời giải các bài tập đã làm ở nhà mà giáo viên đã quy định, nhằm kiểm tra việc vận dụng lý thuyết trong việc giải bài tập toán của học sinh, kiểm tra kỹ năng tính toán, cách diễn đạt bằng lời và cách trình bày lời giải bài toán của học sinh. Sau khi đã cho học sinh nhận xét ưu, khuyết điểm trong cách giải, đánh giá đúng sai trong lời giải hoặc có thể đưa ra cách giải ngắn gọn hơn thông minh hơn giáo viên cần phải chốt lại vấn đề có tính giáo dục theo nội dung sau - Phân tích những sai lầm và nguyên nhân dẫn đến sai lầm ( nếu có) - Khẳng định những chỗ làm đúng, làm tốt của học sinh để kịp thời động viên học sinh. - Đưa ra những cách giải khác ngắn gọn hơn, thông minh hơn hoặc vận dụng lý thuyết một cách linh hoạt hơn để giải các bài toán (nếu có thể) c) Bước 3 : Cho học sinh làm một số bài tập mới ( có trong hệ thống bài tập của các tiết luyện tập mà học sinh chưa làm hoặc do giáo viên tự biên soạn theo mục tiêu đề ra của tiết luyện tập ) nhằm mục đích đạt được một hoặc một số yêu cầu trong các yêu cầu sau : - Kiểm tra ngay sự hiểu biết của học sinh phần lý thuyết mở rộng (hoặc kiến thức sâu hơn) mà giáo viên đã đưa ra trong tiết luyện tập ở đầu giờ ( nếu có) 3
- - Rèn luyện một vài thuật toán cơ bản mà yêu cầu học sinh cần phải ghi nhớ trong quá trình học tập. - Rèn luyện cách phân tích nội dung bài toán để tìm phương hướng giải quyết bài toán, các bước tiến hành giải toán. - Rèn luyện cách trình bày lời giải một số bài toán bằng văn viết Tóm lại, dù sử dụng phương án nào cũng cần phải có ba phần chủ yếu là hoàn thiện lý thuyết, rèn luyện kĩ năng thực hành và phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh. Muốn vậy phải nghiên cứu kĩ hệ thống bài tập trong sách giáo khoa, sách bài tập toán về nội dung, về cách giải và đặc biệt là tính mục đích của từng bài tập mà các tác giả sách giáo khoa đưa ra hoặc các bài tập tự soạn theo chủ ý và mục đích của mình. 1.3 Mục tiêu của giải pháp - Hoàn thiện và nâng cao ở mức độ phổ thông cho phép đối với phần lí thuyết của tiết học trước, thông qua một hệ thống các bài tập ( gồm các bài tập trong sách giáo khoa, sách bài tập hoặc các bài tập tự chọn ) đã được sắp xếp một cách hợp lí. - Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng, thuật toán hoặc nguyên tắc giải toán, dựa trên cơ sở nội dung kiến thức toán đã học và phù hợp với trình độ tiếp thu của đại đa số học sinh của một lớp học. Đây thực chất là vấn đề vận dụng lý thuyết để giải bài tập hoặc hệ thống các bài tập nhằm hình thành kỹ năng cần thiết cho học sinh được dùng nhiều trong thực tiễn đời sống và học tập. - Thông qua phương pháp và nội dung của tiết học, rèn luyện cho học sinh nề nếp làm việc, có tính khoa học, học tập tích cực chủ động và sáng tạo, phương pháp tư duy và các thao tác tư duy cần thiết. 1.4 Các căn cứ đề xuất giải pháp ➢ Đối với giáo viên : Từ trước đến nay giáo viên chưa thực sự chú trọng, đầu tư vào việc dạy các tiết luyện tập, nhiều giáo viên xem đấy chỉ là tiết học dùng để chữa các bài tập đã giao về nhà cho học 5
- phân hoá các bài tập nâng cao được bổ sung ở sách bài tập, đòi hỏi giáo viên phải đọc và lựa chọn cho phù hợp . SGK mới rất quan tâm đến việc hướng dẫn học sinh sử dụng máy tính bỏ túi để làm các phép tính một cách nhanh chóng và thuận tiện. Nếu trong các tiết luyện tập giáo viên không quan tâm đến việc này thì học sinh sẽ không biết sử dụng thành thạo máy tính bỏ túi để tính. Bên cạnh đó học sinh mất dần hứng thú học toán, máy móc trong việc phát hiện và giải quyết vấn đề nảy sinh trong bài tập, hạn chế khả năng sử dụng ngôn ngữ chính xác, các phẩm chất của tư duy linh hoạt, độc lập và sáng tạo không được phát triển. Dẫn đến học sinh có thói quen ỷ lại, không mạnh dạn trình bày ý tưởng của mình. Vì vậy, rất cần một quá trình lao động sư phạm tích cực và sáng tạo của giáo viên , nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng các tiết luyện tập toán theo hướng đổi mới phương pháp dạy học.Từ thực trạng trên để công việc đạt được hiệu quả cao hơn tôi đã mạnh dạn đưa ra sáng kiến kinh nghiệm “Một số phương pháp dạy tiết luyện tập toán 6 ” góp một phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học và dạy cho học sinh trở thành những người chủ tương lai thực sự có đức, có tài của đất nước. 1.5 Phương pháp thực hiện + Phương pháp điều tra; + Phương pháp quan sát; + Phương pháp phân tích sản phẩm. 1.6 Đối tượng và phạm vi áp dụng Đề tài này được áp dụng trong khi dạy chương trình toán 6 trường THCS Phạm Hồng Thái. 2. Quá trình hình thành và nội dung giải pháp 2.1 Quá trình hình thành a) Để thực hiện thành công một tiết luyện tập toán theo SGK mới, giáo viên cần phải - Tham gia đầy đủ các buổi học chuyên đề thay sách giáo khoa môn toán. - Thường xuyên tham gia dự giờ đồng nghiệp dạy cùng bộ môn. - Tham gia dạy trực tiếp môn toán 6 theo SGK mới. 7
- Bước tiếp theo là nghiên cứu các bài tập SGK, sách bài tập toán theo yêu cầu sau và tự mình phải trả lời được những yêu cầu này: + Cách giải từng bài toán như thế nào ? + Có thể có bao nhiêu cách giải bài toán này + Cách giải nào là cách giải thường gặp ? Cách giải nào là cơ bản ? + Ý đồ của tác giả đưa ra bài toán này để làm gì ? + Mục đích và tác dụng của từng bài tập như thế nào ? Nghiên cứu sách tham khảo (sách giáo viên, sách hướng dẫn giảng dạy .v.v Sau khi nghiên cứu kỹ các tài liệu mới tập trung xây dựng nội dung tiết luyện tập và phương pháp luyện tập. 2.2 Nội dung của giải pháp mới hiện nay Nội dung bài soạn (hay nội dung một giáo án) phải thể hiện được các đề mục chủ yếu sau đây: a) Mục tiêu của tiết luyện tập. (mục tiêu đưa ra được càng cụ thể càng tốt) b) Cấu trúc luyện tập: - Sửa các bài toán cũ đã ra ở kỳ trước: + Số lượng bài tập – dự kiến thời gian. + Chốt lại vấn đề gì qua các bài tập này ? (Về lý thuyết, về thuật toán điểm cần ghi nhớ v.v ) - Cho học sinh làm bài tập mới (chọn lọc trong SGK, SBT hoặc tự đưa ra). + Số lượng bài – dự kiến thời gian. + Mỗi bài đưa ra có dụng ý gì ? + Chốt lại những vấn đề gì sau khi cho học sinh làm các bài tập này? - Hướng dẫn học sinh học bài, làm bài ở nhà sau tiết luyện tập. + Hệ thống các bài tập cho về nhà làm (trong SGK, SBT hoặc tự ra). + Có cần gợi ý gì đối với từng bài tập cho học sinh yếu ? Cho học sinh giỏi ? 9
- t 180 0 x· Ot t¶Oy = = 900 ) 2 x O y Học sinh (nhận xét ) : Tia phân giác của góc bẹt hợp với mỗi cạnh của góc một góc 900 Vì vậy, không nhất thiết giáo viên phải hỏi : “thế nào là tia phân giác của một góc ” hoặc “Nêu cách vẽ tia phân giác của một góc”. Mà thông qua bài tập trên học sinh vẫn tái hiện lại các kiến thức đó . Ngoài ra, còn rèn luyện kỹ năng tính toán từ đó rút ra nhận xét quan trọng về tia phân giác của góc bẹt . Để quá trình tự luyện giải bài tập ở nhà của học sinh được tốt hơn giáo viên cần chuẩn bị trước hệ thống câu hỏi, bài tập giao về nhà hợp lý, để học sinh vận dụng ngay kiến thức vừa học vào giải quyết các yêu cầu đó mà không gặp nhiều khó khăn. Nếu giao những bài tập quá khó thì đối với những học sinh yếu, kém sẽ không làm được, dẫn đến tâm lý nặng nề, dần sẽ sợ học môn toán, không phát huy được năng lực của các em . Một trong những cách thức tạo hứng thú cho học sinh khi dạy học luyện tập là để các em được tự trình bày ý tưởng của mình và có sự đóng góp, nhận xét của các bạn học sinh khác. Hiệu quả sẽ cao hơn khi chính ý tưởng của các em lại được tập thể đánh giá là tối ư u nhất và được giáo viên khuyến khích sử dụng trong các lời giải bài toán. Việc tìm nhiều lời giải cho một bài toán giúp giáo viên có thể khơi dậy được tính tích cực trong mỗi học sinh. Trên cơ sở những bài toán trong SGK giáo viên có thể thêm hoặc thay đổi giả thiết, yêu cầu của bài toán nhằm đặt học sinh trước tình huống có vấn đề, các em có nhu cầu giải quyết bài toán trên nền tảng của bài toán trước. Qua đó cho các em thấy được sự phong phú đa dạng của toán học, rèn luyện ở các em kỹ năng phân tích giả thiết để tự mình đề ra phương án tối ưu nhất giải quyết bài toán. 11
- Tìm ƯCLN (13;78) = 13 (vì 78 13 ) Tìm BCNN (12; 36; 72) = 72 (vì 72 12 ; 72 36 ) Những bài tập như vậy rất tốt giúp học sinh khắc phục được tính ỳ (hành động một cách máy móc, không thay đổi phù hợp với điều kiện mới), làm trí tuệ trở nên linh hoạt . Tuy nhiên, giáo viên ra số lượng bài tập loại này vừa phải và chọn thời điểm phù hợp (nói chung là sau khi học sinh nắm được và vận dụng tương đối thành thạo quy tắc tổng quát), nếu không học sinh không còn tin vào quy tắc nữa . Vấn đề là giáo viên phải tư duy, linh hoạt vừa làm cho học sinh nắm vững quy tắc tổng quát để có thể áp dụng có 13
- hỏi học sinh phải so sánh các kết quả đó, để tìm ra lời giải hay nhất, ngắn gọn nhất, mở đường cho sự sáng tạo phong phú . *) Trong tiết luyện tập, giáo viên cần quan tâm đến việc rèn luyện cho học sinh khả năng chuyển dễ dàng, nhanh chóng từ tư duy thuận sang tư duy nghịch để học sinh nắm vững hơn nội dung kiến thức đã được học ở tiết trước. SGK toán mới rất quan tâm đến vấn đề này do đó giáo viên cần chú ý chọn các bài tập theo hướng đấy. Ví dụ 1 : Tiết 24- “luyện tập ” (sau bài “Dấu hiệu chia hết cho 3, cho 9”)- Toán 6 Giáo viên yêu cầu học sinh làm bài tập Bài 104 (trang 42 SGK): Điền chữ số vào dấu * để : a, 5*8 chia hết cho 3 b, 6*3 chia hết cho 9 Mục đích: Biết một số chia hết cho 3, cho 9 thì tổng các chữ số của nó phải chia hết cho 3, cho 9 Nếu nắm được điều nay thì học sinh sẽ dễ dàng tìm được : a, * = 2; 5; 8 b, * = 0; 9 Bài 105 (trang 42 SGK): Dùng ba trong bốn chữ số 4; 5; 3; 0 ghép thành các số có ba chữ số sao cho các số đó a. Chia hết cho 9 b. Chia hết cho 3 mà không chia hết cho 9 Bài tập này đòi hỏi học sinh phải cộng tổng ba chữ số trong bốn số 4; 5; 3; 0 nếu tổng nào chia hết cho 9 thì lập được số chia hết cho 9 Học sinh tìm được đáp số : a.450; 540; 405; 504; b. 453; 435; 345; 354; 543; 534 Ví dụ 2: Tiết 67 – “Luyện tập ” 15
- Kết thúc giáo viên cho cả lớp nhận xét và thưởng cho đội thắng cuộc. Ví dụ 2: Tiết 85 - “Luyện tập ” ( Sau tiết 84 : “Tính chất cơ bản của phép cộng phân số ) Giáo viên có thể cho học sinh tiến hành làm phiếu học tập theo nhóm (bài tập 55 trang 30 SGK toán 6 tập 2 ) + 1 5 1 11 2 9 36 18 1 2 5 9 1 36 11 18 Bảng 2.2 Luật chơi : Mỗi ô điền đúng được một điểm, kết quả chưa rút gọn trừ 0,5 điểm . Nhóm nào phát hiện được những kết quả giống nhau điền nhanh sẽ được thưởng 2 điểm . Thời gian là 5 phút . Giáo viên khen thưởng đội thắng cuộc. Ví dụ 3: Tiết 16 “Luyện tập ”( Sau tiết 15 “ Thứ tự thực hiện các phép tính” – toán 6) Giáo viên ra câu đố (bài tập 82 SGK ): Cộng đồng các dân tộc Việt Nam có bao nhiêu dân tộc ? Có thể học sinh đưa ra nhiều ý kiến, để biết kết quả chính xác học sinh tiến hành tính giá trị của biểu thức 34 – 33, kết quả chính là câu trả lời (54 dân tộc ) Tuy nhiên, việc tiến hành tổ chức các trò chơi trong giờ học đòi hỏi giáo viên phải linh hoạt, điều khiển tốt, nếu không tiết học trở thành lộn xộn, học sinh có thể cãi nhau, gây ảnh hưởng đến các lớp xung quanh. *) Chú trọng rèn luyện kỹ năng sử dụng MTBT ở học sinh , để giảm nhẹ những khâu tính toán không cần thiết. 17
- đạo là hoàn thiện hệ thống kiến thức (ở mức độ cho phép), rèn luyện kỹ năng, thuật toán , rèn luyện nề nếp học tập. Để đảm bảo phát huy tối đa hoạt động của giáo viên và học sinh tránh sự đơn điệu thụ động như các tiết luyện tập toán trước đây. Giáo viên cần tìm tòi , thiết kế hệ thống các câu hỏi, kèm theo bài tập để kiểm tra nhận thức của học sinh, tạo tình huống mới về kiến thức đã học, kích thích hứng thú học tập của học sinh . Hệ thống các câu hỏi, bài tập đó gắn với các biện pháp kỹ thuật của người giáo viên làm cho tiết học sinh động hơn, làm cho học sinh nắm kiến thức sâu sắc hơn. Ví dụ 2 : dạy tiết 90 “Luyện tập ” – toán 6 (Sau tiết 89 “Tính chất cơ bản của phép nhân phân số ”) Mục tiêu của tiết này là : Kiến thức: - Củng cố và khắc sâu phép nhân phân số, các tính chất cơ bản của phép nhân phân số. Kỹ năng : - Vận dụng linh hoạt các kiến thức đã học về phép nhân phân số và các tính chất cơ bản của phép nhân phân số để giải toán. Thái độ: - Giáo dục sự yêu thích môn toán, học tập gương nhà toán học Việt Nam. Vì vậy, giáo viên có thể tiến hành theo trình tự sau: Bước 1: - Giáo viên yêu cầu học sinh làm bài tập giao về nhà để kiểm tra sự vận dụng lý thuyết vào làm bài tập của học sinh (bài 75, 76 SGK/ 39 toán 6 tập 2) Bài 75 (Đề bài ghi trên bảng phụ) và cho học sinh lên điền vào ô trống x 2 5 7 1 3 6 12 24 2 4 3 9 5 6 7 12 19
- Giáo viên giới thiệu sơ lược về nhà toán học : Lương Thế Vinh Trong sách bài tập toán 6, còn có rất nhiều bài tập để phát hiện học sinh khá giỏi. Ở tiết luyện tập này nếu có thời gian giáo viên có thể giao bài 94 trang 19 SBT toán 6 tập 2 Tóm lại, khi dạy tiết luyện tập toán, giáo viên cần phải lưu ý : suy nghĩ tìm cách giải, tìm những cách giải khác nhau (nếu có) và chọn cách hay nhất để giải và từ đó hướng dẫn học sinh làm theo. Trên cơ sở thiết kế hệ thống câu hỏi khai thác bài toán, tổng quát hoá, tương tự và mở rộng bài toán. Đồng thời, giáo viên cần phải quan tâm sửa chữa các sai sót học sinh thường gặp như : Vẽ hình thiếu chính xác, lập luận chứng minh không chặt chẽ trong hình học; nhầm lẫn trong việc sử dụng các phép toán, áp dụng nhầm lẫn các quy tắc toán học . 3. Hiệu quả giải pháp Kết quả nghiên cứu tính hiệu quả so với cách làm cũ : Sau 2 năm học, tiến hành dạy tiết luyện tập theo phương pháp này, bản thân là giáo viên toán được tham gia dự chuyên đề ở các trường THCS trên địa bàn huyện và được trực tiếp dạy toán 6, tôi đã tìm tòi học hỏi và vận dụng phương pháp nêu trên vào quá trình giảng dạy bước đầu mang lại hiệu quả rõ rệt . Qua kiểm tra đánh giá học sinh lớp 6 ở 3 mức độ: Nhận biết, thông hiểu, vận dụng. Tôi đã thấy được chất lượng học sinh đang có sự chuyển biến, các em dần dần làm quen được cách làm mới, giờ học sôi nổi hơn . Qua thăm dò ý kiến của học sinh thì tiết học toán – luyện tập có áp dụng phương pháp trên thì học sinh rất thích , hăng say phát biểu ý kiến. Còn tiết luyện tập theo hướng cũ học sinh không mấy hứng thú, giờ học buồn tẻ dẫn đến học sinh ngại học toán . Kết quả khảo sát chất lượng: Kết quả kiểm tra chương ở lớp 6A trường THCS Phạm Hồng Thái năm học 2014- 2015 như sau: Tổng Điểm 0 2 Điểm 2 5 Điểm Trung Điểm Khá + Lớp số bình giỏi HS SL % SL % SL % SL % 6A 35 5 14,3 10 28,6 15 42,9 5 14,2 6B 34 6 17,6 10 29,4 14 41,2 4 11,8 21