Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng giờ Chính tả ở Lớp 2
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng giờ Chính tả ở Lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_g.doc
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng giờ Chính tả ở Lớp 2
- Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng giờ chính tả lớp 2 A – Phần mở đầu I- Lý do chọn đề tài a/ Tầm quan trọng của phân môn Chính tả trong nhà trường Tiểu học. Đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với giáo dục. Bộ giáo dục - đào tạo đã chủ trương đổi mới chương trình tiểu học theo các mục tiêu: Tiếp tục tăng cường thực hiện giáo dục toàn diện (Đức trí thể mỹ và các kỹ năng cơ bản) đảm bảo sự cân đối hài hoà giữa các lĩnh vực học tập và giáo dục ở nhà trường tiểu học. Đứng trước thực trạng đó, yêu cầu đối với nhà giáo dục phải đào tạo con người toàn diện trong đó tiếng mẹ đẻ (tiếng phổ thông) là một trong những điều kiện tiên quyết giúp học sinh nắm bắt được tri thức một cách dễ dàng. Để giúp học sinh nói, viết đúng tiếng phổ thông trước hết người giáo viên cần phải hiểu và nắm vững thuật ngữ “Chính tả” được hiểu theo nghĩa gốc là “Phép tính đúng” hoặc “Lối viết hợp chuẩn”. Chính tả là những chuẩn mực của ngôn ngữ viết, được thừa nhận trong ngôn ngữ toàn dân. Mục đích của nó làm phương tiện thuận lợi cho việc giao tiếp bằng chữ viết bảo đảm cho người viết và người đọc đều hiểu thống nhất những điều đã viết. Chính tả trước hết là sự quy định có tính chất xã hội, một sự quy định có tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối, nó không cho phép vận dụng quy tắc một cách linh hoạt có tính chất sáng tạo cá nhân. Một ngôn ngữ văn hoá không thể không có chính tả thống nhất. Chính tả thống nhất là một trong những biểu hiện của trình độ văn hoá phát triển của một dân tộc. Phân môn chính tả trong nhà trường, giúp học sinh hình thành năng lực và thói quen viết đúng chính tả, nói rộng hơn là năng lực và thói quen viết đúng tiếng việt. Vì vậy, phân môn chính tả có vị trí đặc biệt quan trọng, nhằm thực hiện mục tiêu của môn tiếng việt là rèn và phát triển tiếng mẹ đẻ cho học sinh, trong đó có năng lực chữ viết. b/ Thực tiễn dạy học phân môn Chính tả trong nhà trường Tiểu học hiện nay. Trong những năm gần đây, các nhà trường Tiểu học luôn quan tâm đến chữ viết qua các phong trào thi “Viết chữ đẹp”. Đây là một hình thức để tuyên truyền sâu rộng cho toàn dân trong việc giáo dục con em viết chữ đẹp. Viết đẹp không phải chỉ đẹp về hình thức mà còn đúng cả về luật chính tả. Hiện nay, tình hình viết sai lối chính tả của học sinh khá phổ biến. Vấn đề này có thể do nhiều nguyên nhân, nguyên nhân chủ yếu là do giáo viên và học sinh đôi khi còn phát âm theo tiếng địa phương (chưa nói chuẩn theo tiếng 1
- Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng giờ chính tả lớp 2 phổ thông). Hơn nữa trình độ tiếng việt của một số giáo viên còn hạn chế, năng lực nắm luật chính tả chưa sâu nên rất lúng túng trong việc giảng dạy chính tả. mặt khác do điều kiện gia đình các em làm nông nghiệp, lại có đông con đi học, bố mẹ suốt ngày bận rộn với công việc đồng áng, không có thời gian dạy dỗ con cái. Phần nữa là ý thức học tập của các em còn hạn chế, không đồng bộ Do đó, một yêu cầu bức xúc là giáo viên phải thực sự quan tâm tới từng đối tượng học sinh. Có biện pháp cụ thể, sát thực trong việc luyện cho học sinh viết đúng đẹp để “Nâng cao chất lượng giờ chính tả”. II- Phạm vi nghiên cứu Quá trình dạy học là một nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường bao gồm: thực hiện dạy học trên lớp, thực hiện phân phối chương trình của bộ, cải tiến, đổi mới phương pháp dạy học và các hình thức dạy học ở toàn bộ các môn học. Vì điều kiện không cho phép nên tôi chỉ đi sâu tìm tòi, giải quyết một số vấn đề thuộc phạm vi cải tiến phương pháp dạy học phân môn chính tả theo hướng tích cực vào người học và chỉ thực hành, thực nghiệm ở lớp 2A ở trường tôi. III - Đối tượng nghiên cứu Học sinh lớp 2A ở trường tôi. IV – Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết. - Phương pháp quan sát. - Phương pháp thảo luận – trao đổi chuyên môn cùng các đòng chí giáo viên trong tổ. B – phần nội dung I – Sơ lược về đặc điểm tình hình chung của lớp 2A 1) Thuận lợi Năm học 2005 –2006 là năm học thứ ba thực hiện chương trình thay sách cho học sinh khối 2, qua học tập và tiếp thu chuyên đề nên tôi đã định hướng cho mình là tìm hiểu, theo dõi sáng kiến của mình về nâng cao chất lượng giờ chính tả lớp 2 cụ thể là lớp 2A. Lớp học gồm 32 em, 15 em nữ, 17 em nam. Các em đều ngoan ngoãn biết nghe lời thầy cô dạy bảo nên được ban giám hiệu nhà trường cùng với phòng giáo dục rất quan tâm, hầu hết đồ dùng 2
- Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng giờ chính tả lớp 2 và thiết bị dạy học được trang bị khá đầy đủ. Mặt khác với chương trình mới này các em được học rất sát với trình độ của các em. Vì vậy có sự thuận lợi cho giáo viên dạy học. 2) Khó khăn: Lớp 2A là lớp học phần đa là con gia đình nông nghiệp nên việc chăm lo đến học tập của các bậc phụ huynh đối với các em còn hạn chế. Có em đi học còn quên vở hay bút sách. Mặc khác do cơ sở vật chất của nhà trường còn có hạn: Một số bàn học còn chưa đủ kích cỡ, không phù hợp với lứa tuổi học sinh, một số em tư thế ngồi học chưa đúng . II – Phân loại học sinh Phân loại học sinh là điều cần thiết trong việc nâng cao chất lượng của giờ chính tả. Nếu như không phân loại sẽ ảnh hưởng đến việc học của học sinh khá giỏi và học sinh yếu kém. Vì vậy sau khi ổn định tổ chức lớp trong vòng hai tuần đầu, tôi đã tiến hành điều tra học sinh. Qua bài kiểm tra đầu năm của các em qua thực tế bài viết trong 4 bài 2 tuần đầu, ngoài ra tôi còn tham khảo thêm qua giáo viên dạy các em năm trước. Sau đó tôi tiến hành phân loại học sinh theo tiêu chí chữ viết. Những em viết đúng, đẹp được phân loại A như các em: Trâm, Hoài nam, Thu Huệ, Hải Ly Những em viết đẹp hoặc chưa đẹp lắm, sai ít lỗi chính tả được phân loại B (Có 14 em) như em Đức, Thư, Vinh, .Những em viết còn xấu, sai nhiều lỗi, được phân loại C gồm 10 em như Giang, Linh, Phúc . Qua việc điều tra thực tế như vậy, tôi thấy tình trạng các em viết xấu và sai nhiều lỗi quá nhiều. Nếu như không có biện pháp khắc phục sớm, giúp các em viết đẹp và biết cách viết chữ như thế nào cho đúng, thì lên lớp 3 các em sẽ học như thế nào đây? Chính vì điều này đã thôi thúc tôi tìm ra một số biện pháp cụ thể, sát thực để giúp và đưa những đối tượng thuộc loại C lên loại (A hoặc B). Có như vậy thì chất lượng giờ chính tả mới được tốt. III – Một số biện pháp nâng cao chất lượng giờ chính tả ở lớp 2 1) Rèn nề nếp tác phong cho học sinh khi ngồi viết chính tả. Trước hết muốn học sinh viết đẹp thì người giáo viên đừng nên nghĩ rằng “Rèn nề nếp tác phong cho học sinh khi viết” là không quan trọng, mà ngược lại, tư thế ngồi viết của học sinh là cái quan trọng đầu tiên giúp học sinh có nét chữ đẹp. Vì vậy, ngay từ buổi đầu bước vào lớp, tôi chú ý ngay đến tư thế ngồi viết của từng em. Nhiều em lên lớp 2 rồi mà khi viết, mắt vẫn cúi sát xuống bàn hay cầm bút thấp quá nên mực hay ra tay làm bẩn vở. Để giúp những em này biết ngồi ngay ngắn khi viết, trước hết giáo viên phải giải thích 3
- Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng giờ chính tả lớp 2 cho các em hiểu cần ngồi viết đúng tư thế để giúp chữ viết đẹp hơn và có lợi cho sức khoẻ, mà ngược lại, nếu ngồi xiêu vẹo người thì sẽ bị tật vẹo cột sống suốt đời. Nếu em nhìn vào vở sát quá thì mắt sẽ bị cận thị Sau đó giáo viên làm mẫu cho học sinh quan sát và làm theo tư thế ngồi viết, ngồi viết ngay ngắn, lưng thẳng, không tì ngực xuống bàn. Đầu hơi cúi, mắt cách vở khoảng 20 – 25 cm. Tay phải cầm bút, tay trái đặt phía trước bên trái quyển vở giữ mép vở khi viết không bị xê dịch, quyển vở được để hơi chếch về phía tay trái. hai chân để thẳng, vuông góc sau đó tôi hướng dẫn cho các em cách cầm bút sao cho dễ viết, không cao quá khó viết và không thấp quá mực vào tay làm bẩn bài viết. Khi hướng dẫn tỉ mỉ tôi khuyến khích cho các em thực hiện, bạn nào ngồi đúng nhất được cô tuyên dương trước lớp. Trong các tiết dạy chính tả tiếp theo, tôi luôn nhắc nhở để các em nhớ và ngồi đúng, tạo thói quen cho học sinh. 2) Luyện viết đúng phụ âm đầu. Để giúp học sinh viết đúng 1 số phụ âm đầu dễ lẫn lộn này, trong mỗi giờ chính tả tôi phải kết hợp nhiều phương pháp dạy học một cách linh hoạt, trong từng bài cụ thể đối với từng cặp phụ âm mà học sinh hay sai để cho bài dạy sinh động, để giúp các em dễ phân biệt được cách viết đúng, sai. Chẳng hạn, với phương pháp trực tiếp, tôi cho học sinh nghe, đọc, nhận xét các chữ viết đúng bằng mắt, tập viết vài lần chữ khó vào bảng con cho quen tay. Bước đầu tôi đọc toàn bài, sau đọc từng câu, từng cụm từ, chú ý nhấn mạnh những tiếng khó để luyện tập cách nghe cho học sinh. Tiếp theo tôi đặt câu hỏi bằng phương pháp gợi mở vấn đáp để giúp các em nhận ra những tiếng từ các em hay viết sai. Sau đó tôi cho một số em nhắc lại một số luật chính tả, các em đã được học. Như trước e, ê và i âm cờ được viết bằng chữ k (ca). Ví dụ: kể; kẻ Hoặc trước e, ê và i âm gờ viết bằng chữ gh (gh ghép) hay ngờ viết bằng ngh (ngờ nghép). Ví dụ: ghế; ghé . nghỉ; nghé . Sau khi các em nhắc lại được 1 số luật chính tả, thì cho các em được luyện viết nhiều lần trên bảng con để các em nhớ. Trong những giờ chính tả có phần luyện tập r/d/gi đa số các em khó tìm ra quy tắc phân biệt khi nào viết, d hay gi. Vì vậy với bài tập so sánh trên tôi cho các em phân biệt bằng nhiều cách như sau. Đầu tiên cho các em dựa vào nghĩa để phân biệt. 4
- Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng giờ chính tả lớp 2 Bước 1: Cho học sinh đọc kỹ đoạn văn, tìm ra những tiếng từ có phụ âm đầu r/d/gi có trong bài. Học sinh tìm được là: dạo, rụt, rè, giờ, giỏi, dành, . Bước 2: Cho học sinh viết bảng con (nhận xét, giảng giải cách viết) phát âm, giải nghĩa từ, tìm từ có tiếng đó. Chẳng hạn: với tiếng “dạo”. Học sinh viết bảng con, giáo viên nhận xét và giảng cách viết. d + ao + dấu nặng - dạo. + Phát âm (gv làm mẫu, gọi 1; 2 học sinh phát âm lại) d – ao – nặng – dạo. + Giải nghĩa (giáo viên có thể gợi ý cho học sinh giải nghĩa). Em hãy đọc lại câu có chứa tiếng “dạo” cho trong bài và cho cô biết “dạo” ở đây ý nói gì? (chỉ khoảng thời gian ngắn chưa lâu). + Học sinh tìm từ có tiếng “dạo”; dạo này, một dạo Bước 3: Cho học sinh phân biệt r/ d/ gi bằng cách tìm các tiếng lập bảng. r d gi - rạo: rạo rực dạo: dạo nào không có rào rạo, rệu rạo . dạo chơi, dạo này Gợi ý cho học sinh điền từ bằng cách dùng câu hỏi gợi ý. Em tìm từ có tiếng “rạo” “dạo”. Học sinh tìm đến đâu tôi ghi lên bảng đến đấy. Dù sử dụng phương pháp nào đi nữa, tôi đều phải theo dõi, quan tâm uốn nắn từng em. Những em viết sai s/ x là do các em phát âm sai. Khi dạy tôi phải phát âm lại cho các em nghe, phát âm s cong lưỡi, đầu lưỡi chạm ngạc phía trên. Còn viết là x khi đọc lưỡi thẳng đầu lưỡi đưa ra phía ngoài, luồng hơi thẳng ra ngoài. Sau đó tôi cho cả lớp phát âm lại nhiều lần cho đúng, viết bảng con theo sự phát âm của cô như: Thi viết nhanh và đúng, cô đọc “xanh” cả lớp viết vào bảng con, bạn nào viết sai bị đứng lên phát âm lại 10 lần hoặc một số từ có tiếng khác như (mùa xuân, sương, ). Hoặc khi dạy chính tả tiết 1tuần thứ 2 ở phần luyện tập tôi chọn bài tập 2a (bài lựa chọn) giúp các em làm quen với cách phân biệt s/x qua các dạng bài tập. Bài tập: Hãy điền s/x vào chỗ trống cho thích hợp: a) - oa đầu - Ngoài an - Chim. âu - âu cá Trước khi làm bài tôi cho 2; 3 em đọc to nội dung yêu cầu của bài tập, cả lớp đọc thầm. 5