Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy Tập làm văn Lớp 3

doc 18 trang sangkien 05/09/2022 10121
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy Tập làm văn Lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_day_tap_lam_van_lop_3.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy Tập làm văn Lớp 3

  1. A- Đặt vấn đề: I/- Mở đầu: 1- Nhân loại đã bước vào thế kỷ XXI, một thế kỷ sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi to lớn, khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt, kinh tế, tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất, toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Sự tranh chấp quốc tế trên tất cả các lĩnh vực ngày càng gay gắt. Phân tích tình hình trong nước và thế giới khi bước vào thế kỷ XXI đại hội IX của Đảng đã xác định: "Con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá của đất nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh trí tuệ của người Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá". Mặt khác, sự công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và những thách thức của hội nhập quốc tế đòi hỏi chúng ta phải khẩn trương đổi mới giáo dục - đào tạo, trong đó có đổi mới chương trình dạy học bao gồm cả đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học. Thực hiện chủ trương đúng đắn đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang triển khai đổi mới chương trình dạy học và cấp học nói chung, chương trình Tiểu học nói riêng. Chính vì vậy, việc soạn thảo chương trình Tiểu học mới góp phần chuẩn bị lớp người phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế đầu thế kỷ XXI là vô cùng cần thiết. Xu thế phát triển chương trình và đổi mới quan niệm về sách giáo khoa của giáo dục phổ thông trong khu vực và trên thế giới đòi hỏi phải khẩn trương điều chỉnh cách soạn thảo chương trình và biên soạn sách giáo khoa ở chương trình phổ thông nói chung và Tiểu học nói riêng. Theo lối trụ cột của giáo dục thế kỷ XXI do UNESCO đề xướng là: Học để biết, học để làm, học để cùng chung sống và học để tự khẳng định mình. 2- Như chúng ta đã biệt, môn Tiếng Việt ở Tiểu học là một trong những môn học giữ vị trí vô cùng quan trọng. Mục tiêu chính của môn Tiếng Việt ở Tiểu học nhằm: 1
  2. Hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe - nói - đọc - viết) để học sinh học và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy. Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội tự nhiên, về con người, về văn hoá, văn học Việt Nam và nước ngoài. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học được chia thành nhiều phân môn như: Tập đọc, tập viết, chính tả, kể chuyện, luyện từ và câu, tập làm văn. Mỗi phân môn đều có mục đích và nhiệm vụ riêng của nó song đều có một điểm chung là hình thành và phát triển bốn kĩ năng: nghe - nói - đọc - viết. Thông qua hoạt động giao tiếp cho học sinh, riêng phân môn Tập làm văn có vị trí đặc biệt trong dạy học Tiếng Việt xét trên hai phương diện. - Phân môn Tập làm văn tận dụng các hiểu biết và kĩ năng về Tiếng Việt do các phân môn khác rèn luyện và cung cấp, đồng thời góp phần hoàn thiện chúng. Để làm được một bài văn nói hoặc viết, người làm phải hoàn thiện cả bốn kỹ năng: nghe - nói - đọc - viết, phải biết vận dụng các kiến thức về Tiếng Việt. - Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng sản sinh văn bản. Nhờ vậy, Tiếng Việt không chỉ là một hệ thống cấu trúc được xem xét từng phần, từng mặt, qua từng phân môn và trở thành công cụ giao tiếp tư duy, học tập. Nói cách khác, phân môn Tập làm văn góp phần thực hiện mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy học và học Tiếng Việt là dạy học sinh sử dụng Tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt, trong quá trình lĩnh hội các tri thức, khoa học Tập làm văn là thước đo đánh giá kết quả học tập và giảng dạy phân môn khác. Để làm được một bài văn hay theo đúng nghĩa là một văn bản sản sinh một nhân cách có sáng tạo là rất khó. Học sinh phải nắm chắc các kiến thức về thể 2
  3. loại, hệ thống các kĩ năng phân tích các vấn đề, tím ý, lập dàn ý Đặc biệt kiến thức về các kiểu bài tập làm văn, không chỉ dừng lại ở việc nắm vững từng thể loại văn mà học sinh cần phải có vốn văn học điều đó phải được tích luỹ trong quá trình lĩnh hội tri thức của từng phân môn cùng với khả năng quan sát tinh tế, giàu trí tưởng tượng, giàu tư duy hình tượng, vốn từ phong phú và điều quan trọng là các em được nói, được viết, được nhận xét và đánh giá kết quả. Kết quả học tập của học sinh phản ảnh chất lượng của một nền giáo dục. Muốn đạt được kết quả học tập cao, học sinh học tốt thì trước hết người giáo viên phải dạy tốt. Trên cơ sở tìm tòi, nắm vững nội dung chương trình, mục tiêu đào tạo, người giáo viến phải biết tổ chức, hướng dẫn và có phương pháp dạy học, biết tìm tòi, sáng tạo hình thức tổ chức và phương pháp dạy học thích hợp để hướng cho học sinh biết cách học và tự học tốt để lĩnh hội, chiếm lĩnh tri thức. Nhận thức rõ tầm quan trọng của phân môn Tập làm văn, đồng thời phấn đấu hoà nhập với sự đổi mới chung của ngành giáo dục. Bản thân không ngừng tìm tòi, sáng tạo, phát huy hết khả năng của chính minh nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Chính vì thế tôi quyết định chọn đề tài: "Một số biện pháp dạy Tập làm văn lớp 3" II/- thực trạng của vấn đề nghiên cứu: 1- Thực trạng: Việc nghiên cứu đề tài: "Một số biện pháp dạy Tập làm văn lớp 3" để thấy sự thay đổi so với chương trình 165 tuần cả về nội dung, cấu trúc và phương pháp giảng dạy, đồng thời có sự thay đổi so sánh giữa các lớp trong cùng một chương trình để thấy được tính liên tục và sự kế thừa của các nội dung Tiếng Việt ở các lớp Tiểu học. Từ đó thấy được những ưu điểm, những bất hợp lí (nếu có) của bộ sách Tiếng Việt lớp 3 - chương trình 2000 và đề ra phương pháp dạy học phù hợp với mục đích, yêu cầu của từng bài học. Từ đó nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy và học Tập làm văn ở trường Tiểu học, thực hiện mục tiêu giáo dục đã đề ra "Đào tạo con người phát triển toàn diện". 3
  4. Để việc dạy học tập làm văn có hiệu quả cần phải sử dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, các phương pháp đặc trưng của môn học. Phương pháp thực hành giao tiếp (nghe - nói - đọc - viết) trong các tình huống gia tiếp cụ thể. ở giai đoạn một - lớp 1, 2, 3 yêu cầu: - Đọc thông thạo hiểu được một văn bản ngắn. - Viết rõ ràng và đúng chính tả. - Nghe và nói chủ động, rành mạch. Với môn tập làm văn chủ yếu yêu cầu học sinh thực hành ngôn ngữ bằng chữ (thực hành ngôn ngữ viết), viết đoạn văn, viết văn bản và thực hành ngôn ngữ bằng lời (thực hành ngôn ngữ nói) gồm các hình thức luyện tập, luyện nghe, luyện nói, tập nói trong các hình thức giao tiếp, trong giờ tập làm văn nói Phân môn tập làm văn lớp 3 vẫn tiếp tục học một số kiểu bài của chương trình CCGD và thêm nhiều kiểu bài mới để phù hợp với mục tiêu đã đề ra và xu hướng phát triển của học sinh. Nội dung, kiến thức của các kiểu bài tập làm văn lớp 3 chương trình mới được cung cấp thông qua hệ thống các bài tập chứ không phải một đề bài cụ thể như chương trình CCGD. Khi thực hiện các kiểu bài tập làm văn lớp 3 chương trình 2000, tôi thấy điểm nổi bật của các kiểu bài đều hướng học sinh vào trung tâm. Trong các tiết học, giáo viên vẫn giữ đúng vị trí của người tổ chức, hướng dẫn các hoạt động giao tiếp cũng như các trò chơi đóng vai (giờ học trả lời câu hỏi theo mẫu cho sẵn, tập giới thiệu về mình ) của học sinh. Vì thế thông qua các hoạt động giao tiếp, hình thành ở học sinh tính bạo dạn, huy động ở học sinh vốn ngôn ngữ sáng tạo, luyện kỹ năng nói, viết, kỹ năng sản sinh văn bản đáp ứng mục tiêu của môn học đề ra. 2- Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên: Từ thực trạng trên đối tượng khảo sát của tôi là học sinh lớp 3A - trường Tiểu học Hải Thanh B do tôi phụ trách và trực tiếp giảng dạy. 4
  5. Đây là lớp học 5 buổi/tuần và học theo chương trình mới. Toàn lớp tôi có 31 học sinh, trong đó có 16 em nam và 15 em nữ. Vào đầu năm học 2005-2006, tôi thấy nhìn chung chất lượng học sinh còn yếu, chưa cao. Đặc biệt là môn tập làm văn, học sinh chưa biết viết đủ ý trong câu, ngắt nghỉ cụm từ trong câu, dùng từ còn tối nghĩa, chữ còn xấu Từ tình hình thực tế này tôi đã tạo ra một thế chủ động. Tôi bắt tay ngay vào việc để có biện pháp lựa chọn phương pháp giảng dạy, truyền thụ kiến thức, kinh nghiệm thực hành cho học sinh. Tôi bắt đầu kiểm tra phân loại học sinh. Qua khảo sát điều tra đối tượng cụ thể cho thấy: Môn tập làm văn Số lượng % Viết đủ ý, trọn câu 2 6,4 Viết không biết ngắt nghỉ cụm từ trong câu 7 22,6 Viết sai nhiều lỗi chính tả 10 32 Dùng từ tối nghĩa trong câu 6 19,5 Dùng từ trong câu chưa sát hợp 6 19,5 B- Giải quyết vấn đề I/- Các giải pháp thực hiện dạy học tập làm văn lớp 3: Hiện nay việc dạy các kiểu bài tập làm văn lớp 3 được thiết kế thành một số giải pháp chung như sau: 1- Giải pháp thứ nhất: Là hướng dẫn học sinh làm bài tập tức là trong một giờ tập làm văn lớp 3 đều đi vào thực hành một là nói, hai là viết. Không có tiết cung cấp lý thuyết mà chỉ qua thực hành học sinh tự rút ra những điều cần nhớ - cần biết. Vì vậy chương trình lớp 3 mới lại có rất nhiều dạng bài tập khác nhau. Xét theo kĩ năng được rèn luyện có các loại sau: Bài tập về kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hàng ngày như điền vào các từ in sẵn, viết thư, làm đơn, tổ chức họp và phát biểu trong cuộc họp, giới thiệu hoạt động của tổ, lớp và trường, 5
  6. ghi chép sổ tay bài tập kể chuyện (kể về một sự việc đơn giản) và bài tập miêu tả (tả sơ lược về người và vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh, bằng câu hỏi). Xét theo mục đích có các loại bài tập sau: bài tập nhận diện, bài tập phân tích lới nói, bài tập tạo lập lời nói qua các bài tập mà các em nghe - hiểu được ý kiến của bản, có thể nêu ý kiến bổ sung nhận xét. Xét về hình thức của bài tập có các loại bài tập sau: Trả lời câu hỏi, quan sát tranh và trả lời câu hỏi, đọc văn bản - trả lời câu hỏi. Kể lại chuyện đã học hoặc đã được nghe, nói và viết theo mẫu cho sẵn nói và viết theo tình huống giao tiếp, kể hoặc tả theo yêu cầu. Những bài tập đã có, nhưng làm sao để có cách hướng dẫn học sinh làm bài tập? Vì vậy người giáo viên phải: Giúp học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập (bằng câu hỏi, bằng lời giải thích), chẳng hạn bài yêu cầu ta làm gì? Giáo viên giải thích cụ thể. Người giáo viên còn giúp các em học sinh chữa một phần của bài tập hay làm mẫu hoặc hướng dẫn chi tiết cụ thể (một học sinh làm mẫu trên bảng lớp hoặc cả lớp làm bài vào vở hay bảng con). Qua đó, giáo viên quan sát, uốn nắm cho học sinh. Ngoài ra giáo viên phải là người tổ chức cho học sinh trao đổi, nhận xét về kết quả, rút ra những điểm ghi nhớ về tri thức. 2- Giải pháp thứ hai: Là phải đánh giá kết quả thực hành, luyện tập ở lớp và hướng dẫn hoạt động nối tiếp (ở ngoài lớp sau tiết học). Hướng dẫn học sinh nhận xét kết quả của bạn, tự đánh giá kết quả của bản thân trong quá trình luyện tập. Giáo viên tóm tắt, nhận xét chung (cần khen nhiều, biểu dương những em tốt). Yêu cầu, hướng dẫn học sinh thực hiện những hoạt động tiếp nối nhằm củng cố kết quả thực hành luyện tập ở lớp (viết bài ở nhà, thực hành giao tiếp ngoài lớp học, sử dụng kỹ năng đã học và thực tế cuộc sống). Qua hai biện pháp trên, tôi thấy cái mới của chương trình nội dung và biện pháp chính là: Bài làm rất cụ thể, với đề tài nào là đưa các em thực hành luôn mà học sinh lại nắm được và hiểu bài. Giáo viên là người hướng dẫn, tổ chức hoạt 6