Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm soạn giảng đạt hiệu quả trong giảng dạy

doc 14 trang sangkien 27/08/2022 11400
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm soạn giảng đạt hiệu quả trong giảng dạy", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_kinh_nghiem_soan_giang_dat_hieu_qua_tr.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm soạn giảng đạt hiệu quả trong giảng dạy

  1. KINH NGHỊÊM SỌAN GIẢNG ĐẠT HIỆU QUẢ TRONG GIẢNG DẠY I- LÝ DO TỔ CHỨC CHUYÊN ĐỀ: a) Lý do: Lập kế họach bài học hay còn gọi là sọan giáo án, soạn bài lên lớp là công việc bắt buộc cho tất cả giáo viên trước khi lên lớp phải thực hiện. Sọan bài lên lớp chuẩn bị cho việc dạy và học của thầy và trò trong một đơn vị thời gian theo PPCT nhằm thực hiện mục tiêu đào tạo. Lập kế họach bài học tuy là công việc bắt buộc phải thực hiện đối với mỗi giáo viên trước khi lên lớp, nhưng cho đến nay công việc này thường được giáo viên hiểu rất khác nhau. Có giáo viên cho rằng lập kế hoạch bài học phải nhất thiết theo một mẫu cố định, có giáo viên khác cho rằng đó chẳng qua chỉ là sự tóm tắt nội dung SGK, thậm chí chép lại SGK cũng được. Một số giáo viên khác lại photo hoặc chép lại bài soạn đã có sẵn để lên lớp. Trong khi đó phương pháp dạy học tích cực đã và đang được nhiều giáo viên áp dụng đòi hỏi phải có sự đổi mới cách lập kế họach bài học theo hướng chỉ ra một hệ thống các hoạt động của giáo viên và học sinh nhằm giúp học sinh tự tìm kiếm, khám phá, giải quyết vấn đề đi đến mục tiêu bài học. Gần đây, có giáo viên cho rằngviệc sọan giáo án là hình thức, là một việc làm vô bổ, tốn nhiều thời gian, có người yêu cầu bỏ công đọan này giảm công đọan kia trong giáo án; thậm chí có ý kiến cho rằng nên bỏ hẳn việc soạn giáo án. Để hiểu sâu và đúng vấn đề với tinh thần “Đổi mới giáo dục”. Hôm nay trường THCS Nhơn Mỹ 2 tổ chức hội nghị chuyên đề bàn về “Đổi mới phương pháp sọan giáo án”, mong rằng qua chuyên đề này, với ý kiến đóng góp xây dựng của quý thầy cô sẽ góp nhặt những kinh nghiệm quý báu, xây dựng thống nhất “chuẩn” giáo án chung cho nhà trường, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục cho địa phương nhà. b) Bàn về giáo án: * Về khái niệm giáo án: là bài sọan của giáo viên để lên lớp giảng dạy (từ điển tiếng Việt-NXBKHXH, Hà Nội 1994), không dùng với nghĩa: “kế họach bài dạy” hoặc “thiết kế bài giảng” * Về mặt nguyên tắc: giáo án là lọai hồ sơ bắt buộc đối với giáo viên (Điều lệ trường trung học), Nhằm nhắc nhở nếu không muốn nói là “buộc”
  2. Chuyên đề . . . Trường THCS Nhơn Mỹ 2 người giáo viên phải chuẩn bị trước khi lên lớp; mặt khác đó là cơ sở căn cứ để các cấp quản lý giáo dục kiểm tra đánh giá việc chuẩn bị của giáo viên. * Về chuyên môn: đã là giáo viên được đào tạo bài bản ở trường sư phạm và được tập huấn bồi dưỡng trong hè. * Về phương tiện: giáo viên luôn có trong tay SGK do bộ GD_ĐT ban hành, SGV do những chuyên gia hàng đầu của ngành biên sọan để tham khảo trong việc sọan giảng. * Về thực tiễn: có giáo án tốt chưa hẵn đã dạy tốt mà tiết dạy tốt phần lớn phụ thuộc vào năng lực thực sự của nguời giáo viên lên lớp; không ít trường hợp giáo viên chép giáo án của đồng nghiệp hoặc trong sách bài soạn để đối phó thanh, kiểm tra. * Về chuẩn bị: để có bài sọan tốt giáo viên thường thực hiện qua các bước: + Nghiên cứu bài trong SGK, SGV và các sách tham khảo khác, xác định mục tiêu bài dạy. + Lựa chọn phương pháp dạy học, hình thức dạy học thích hợp, chuẩn bị đồ dùng dạy học. + Chuẩn bị sắp xếp hệ thống câu hỏi một cách logic. c) Tiêu chí để bình chọn giáo án: Một giáo án tốt, phải giải đáp được 4 vấn đề sau: 1. Có đề ra được mục tiêu bài học một cách cụ thể, vừa đáp ứng được yêu cầu của chương trình, vừa phù hợp với trình độ thực tế của học sinh (tính mục đích) 2. Có tổ chức cho học sinh hoạt động tích cực 50% thời lượng tiết học trở lên, theo hướng mục tiêu cuả bài học (tính tích cực) 3. Nhìn từ gốc độ cuả người đứng lớp, giáo án này có thực hiện được không? Có vận dụng được không? (tính thiết thực) 4. Nếu giáo án được thực hiện suôn sẻ thì có thể đánh giá mục tiêu bài học thể hiện ở học sinh không? (tính hiệu quả) Giải thích: * Tiêu chí 1: Thể hiện tính mục đích cuả bài học. Đích là nơi phải đến, học xong bộ môn này hs phải đạt tới chỗ nào. Trên đường đi tới đích, phải hoàn thành từng chặng, mỗi chặng cấm một cọc tiêu. Đó chính là chuẩn chương trình cuả từng lớp, từng cấp. Để đạt chuẩn cuả từng lớp, từng cấp thì mỗi bài học phải cấm được một cọc tiêu, xác nhận đã đạt đến chỗ ấy. Đó chính là mục tiêu bài học, hoặc nêu chung chung, hoặc nêu to tát quá đều làm cho tiết lên lớp mất phương hướng, kém hiệu quả. * Tiêu chí 2: Người thực hiện: Nguyễn Phú Được Trang 2
  3. Chuyên đề . . . Trường THCS Nhơn Mỹ 2 Có mục tiêu rồi thì vấn đề quan trọng đạc biệt là cách đạt mục tiêu. Phải lựa chọn những họat động nào bám sát mục tiêu mà các em thực hiện. Thầy giáo nói nhiều dàn trãi, tổ chức các họat động thiếu chọn lọc . . .đều dẫn tới bài học xa rời mục tiêu hoặc đi chệch hướng. Khi nói thời lượng của trò chiếm 50% trở lên thì không có nghĩa có thầy họat động dưới 50% thời lượng. Mà tốt nhất thầy và trò hoạt động tích cực. Thầy đọc trò chép, thầy giảng trò nghe cũng là thầy trò cùng họat động nhưng không tích cực, bởi vì trò thụ động. Thầy đàm thọai với trò cùng đàm thọai với trò, đến từng nhóm gợi ý thảo luận . . .như vậy hoạt động của thầy có thể trên 50% và hoạt động của trò cũng chiếm trên 50% thời lượng tiết học. Nếu một tiết học mà từ đầu đến cuối, thầy trò cùng trao đổi bàn luận theo mục tiêu bài học và khi đối chiếu với mục tiêu bài học để đánh giá, học sinh đạt chuẩn ở cả ba mặt kiến thức, kỹ năng, thái độ . . . thì đó là tiết học lý tưởng, thầy họat động 100% thời lượng, trò họat động 100% thời lượng, không có trò họat động 80% thì thầy chỉ hoạt động 20% thời lượng thôi. Họat động dạy và họat động học luôn tác động lẫn nhau, bổ sung cho nhau và nâng cao hiệu quả của nhau. Nếu thầy cứ độc diễn, tức là tác động một phía thì giả dụ nói đâu hiểu đấy, kiến thức trò thụ động tiếp nhận vẫn là kiến thức vai mượn, không biến thành của riêng và rất khó sử dụng. * Tiêu chí 3: Giáo án là kế họach thực hiện bài học ở trên lớp. Một giáo án tốt, phải được những người trực tiếp đứng lớp thừa nhận có thể vận dụng được. Thật ra đối các thầy giáo lành nghề, giáo án không cần soạn công phu, chỉ cần mấy cái gạch đầu dòng, ghi lại những ý tưởng mới, những thủ pháp sư phạm đắt giá, để phòng lúc lên lớp bị quên. Những suy nghĩ mới mẻ cần được thể hiện: - Một là tính sáng tạo. Thể hiện rõ nét tinh thần đổi mới phương pháp dạy học, tìm ra cách thực hiện tối ưu mục tiêu bài học, không chỉ ở trong lớp mà có thể ở mọi môi trường giáo dục khác, có thể tự làm ĐDDH hoặc hướng dẫn học sinh làm ĐDDH thay thế cho những thứ gợi ý trong SGV mà lại dễ kiếm hơn, rẻ tiền hơn. Hơn thế có thể thay thế nội dung SGK bằng một nội dung giáo viên tự soạn mà khả năng đạt hiệu quả cao hơn. - Hai là tính thiết thực: Mọi sự đổi mớùi nội dung, hình thức và phương pháp sọan giáo án chỉ có ý nghĩa khi giáo án thể hiện hoặc vận dụng để tiến hành một tiết học. Một giáo án được sọan rất công phu, bởi người soạn đầy tâm huyết, nhưng nếu ứng dụng khó khăn thậm chí không thực hiện được thì chưa thể coi là một giáo án tốt. * Tiêu chí 4: Một giáo án tốt phải thể hiện được tinh thần đổi mới trong kiểm tra đánh giá, cụ thể với một tiết học là đánh giá xem học sinh có đạt mục tiêu bài học không. Tuy nhiên không phải đến cuối tiết mới đưa ra mấy bài tập hoặc Người thực hiện: Nguyễn Phú Được Trang 3
  4. Chuyên đề . . . Trường THCS Nhơn Mỹ 2 câu hỏi mà có thể tiến hành kiểm tra việt thực hiện mục tiêu bài học trong suốt quá trình tiết học diễn ra. Bởi vì kết quả thực hiện mục tiêu bài học không phải chỉ là kết quả của bài học hôm ấy mà là kết quả của một quá trình học tập, không phải chỉ kết quả dạy của thầy mà còn là kết quả tích lũy kinh nghiệm sống của trò, do đó mới có hiện tượng “chưa dạy các em đã hiểu”. Những bài tập, những câu hỏi đánh giá việc thực hiện mục tiêu bài học nên có dấu hiệu riêng (ví dụ viết mực đỏ hoặc gạch chân); nên ra dưới dạng trắc nghiệm để dễ thống kê, hoặc ra dưới dạng câu hỏi kích thích học sinh tự bộc lộ sự hiểu biết, kỹ năng và thái độ. Bài tập ấy có thể thực hiện ở giữa tiết học, cuối tiết học hoặc về nhà. Bởi vì có những bài học đòi hỏi học sinh phải đầu tư thêm thời gian và công sức ở nhà nữa mới hoàn chỉnh mục tiêu. II- THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ: Trong công tác giảng dạy, người giáo viên phải tốn nhiều công sức, tâm huyết để truyền thụ kiến thức đến người học. Để thực hiện tốt điều này mỗi giáo viên phải thiết kế cho mình một đề án (gọi là giáo án) thật cụ thể, thật khoa học trước khi lên lớp. Đây là công việc khá nặng nhọc, tốn nhiều thời gian. Thực tế, để giảng dạy thành công một tiết lên lớp với thời lượng là 45 phút thì giáo viên phải bỏ ra ít nhất là 120 phút để nghiên cứu và soạn bài giảng. Tuy nhiên không phải tiết dạy nào cũng thành công theo ý muốn. Có nhiều nguyên nhân: - Chủ quan: Giáo viên phần lớn chưa nghiên cứu kỹ nội dung bài dạy. Còn hiện tượng dựa vào sách tham khảo (thiết kế bài giảng), lệ thuộc SGV. Kiến thức bản thân chưa sâu nên phần đông giáo viên chỉ sọan bài qua loa, hình thức tóm tắt nội dung SGK. Năng lực sư phạm hạn chế, chưa nắm bắt – hiểu rõ đối tượng người học; còn quan điểm giáo dục theo kiểu đồng nhất, “đánh đổng” người học. Chưa xác định được yêu cầu người học; chỉ thực hiện cho hết bài hết giờ. Chưa nắm vững phương pháp đặc trưng của từng môn. Chưa thật chú ý mục tiêu đề ra trong mỗi chương, mỗi bài; mục đích giáo dục của từng môn, từng tiết học. Thực tế cho thấy có nhiều giáo viên nếu không có SGV, sách tham khảo thì không soạn được giáo án hoặc nếu có sọan được thì cũng tóm tắt nội dung SGK. Công việc này học sinh phần lớn tự làm được. Giáo viên ngoài việc tham gia công tác giảng dạy, còn phải lo gánh vác việc gia đình với muôn vàn khó khăn trong thời buổi kinh tế thị trường; một số giáo viên lương tâm nghề nghiệp chưa cao. - Khách quan: Đối tượng người học hiện nay rất phức tạp, mất căn bản từ các lớp dưới, bị ảnh hưởng nhiều bởi các tện nạn xã hội. Địa bàn các vùng nông thôn sâu, người dân chưa thấy được tầm quan trọng việc học tập của con em. Hòan cảnh kinh tế ảnh hưởng khá lớn đối với việc học tập của học sinh. Điều Người thực hiện: Nguyễn Phú Được Trang 4