Sáng kiến kinh nghiệm Giảng dạy ca dao - dân ca trong chương trình Ngữ văn Lớp 7

doc 20 trang sangkien 29/08/2022 10180
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giảng dạy ca dao - dân ca trong chương trình Ngữ văn Lớp 7", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_giang_day_ca_dao_dan_ca_trong_chuong_t.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Giảng dạy ca dao - dân ca trong chương trình Ngữ văn Lớp 7

  1. sáng kiến kinh nghiệm giảng dạy ca dao- dân ca trong chương trình ngữ văn lớp 7 Lưu Thị Huờ – THCS Phong Khờ Phần 1 tổng quan I- lí do chọn đề tài 1. cơ sở lí luận Có thể nói vấn đề dạy học tác phẩm văn học thể đặc trưng thể loại cho đến nay vẫn chưa hề cũ vì dạy tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại là một trong những yêu cầu cần thiết và quan trọng. Nó khẳng định được cách đi đúng hướng trong việc cải tiến, đổi mới phương pháp nội dung dạy- học Ngữ văn ở THCS theo chương trình SGK mới hiện nay. Như chúng ta đã biết SGK Ngữ văn mới hiện nay được biên soạn theo chương trình tích hợp, lấy các kiểu văn bản làm nơi gắn bó ba phân môn (Văn- Tiếng Việt- Tập làm văn), vì thế các văn bản được lựa chọn phải vừa tiêu biểu cho các thể loại ở các thời kì lịch sử văn học, vừa phải đáp ứng tốt cho việc dạy các kiểu văn bản trong Tiếng Việt và Tập làm văn. Vì vậy SGK Ngữ văn 7 hiện nay có cấu trúc theo kiểu văn bản, lấy các kiểu văn bản làm trục đồng quy. ở chương trình Ngữ văn THCS các em được học 6 kiểu văn bản: Tự sự, miêu tả, biểu cảm, lập luận, thuyết minh và điều hành. Sáu kiểu văn bản trên được phân học thành hai vòng ( vòng 1: lớp 6-7; vòng 2: lớp 8-9) theo nguyên tắc đồng tâm có nâng cao. ở lớp 7 các em học ba kiểu văn bản: biểu cảm, lập luận và điều hành. Trong đó học kì I chỉ tập trung một kiểu văn bản là biểu cảm. Chính vì vậy mà SGK Ngữ văn 7 đã đưa những tác phẩm trữ tình dân gian ( cụ thể là ca dao- dân ca) nhằm minh hoạ cụ thể, sinh động cho kiểu văn bản biểu cảm giúp các em dễ dàng tiếp nhận ( đọc, hiểu, cảm thụ, bình giá về ca dao-dân ca một thể loại trữ tình dân gian). . 1
  2. 2 .cơ sở thực tiễn a,Về phía học sinh - Chưa thực thực sự yêu thích ca dao- dân ca. - Còn nhầm, chưa phân biệt được ca dao- dân ca. - Cứ thấy thể thơ 6/8 là xếp vào ca dao ( cả tục ngữ). - Chưa có kĩ năng phân tích ca dao, một loại thơ dân gian với những đặc trưng riêng về thi pháp. b, Về phía giáo viên Chưa nghiên cứu kĩ đặc trưng thể loại của ca dao- dân ca. Phương pháp dạy ca dao - dân ca còn chung chung cũng giống như phương pháp giảng dạy thơ trữ tình. II- mục đích của đề tài Trong việc giảng dạy phân môn văn hiện nay không ít giáo viên loay hoay lúng túng trước tác phẩm nghệ thuật và tài liệu hướng dẫn ( hình như hướng dẫn một đường mà tác phẩm lại gợi cho giáo viên một ấn tượng khác). Không ít những giờ dạy học tác phẩm văn chương đã diễn ra khá bài bản, giáo viên đã đi hết một quy trình (theo trình tự các đề mục) mà ta chưa yên tâm chút nào, hình như có một cái gì đó sâu thẳm lớn lao ở tác phẩm do mở nhầm cửa người dạy, người học đã chưa đi đến được cái đích cuối cùng. Nguyên nhân chính là chưa xác định, chưa tìm hiểu kĩ đặc trưng thể loại của tác phẩm với tính chất nội dung của nó là không "chính danh" và đã không "chính danh" thì việc phân tích có sắc sảo đến đâu cũng chỉ là võ đoán. Chính vì vậy mà tôi đã chọn đề tài này với mục đích là cùng tìm hiểu về đặc trưng của ca dao- dân ca để từ đó định hướng phương pháp giảng dạy ca dao- dân ca nhằm cá thể hoá việc học, đưa học sinh trở thành nhân tố cá nhân tích cực, chủ động, tự giác tham gia vào việc tìm hiểu những văn bản ca dao- dân ca, khám phá chân lí và giá trị nghệ thuật của tác phẩm. 2
  3. III- đối tượng nghiên cứu Tôi đã vận dụng chuyên đề "Đổi mới phương pháp dạy học văn" và áp dụng vào phương pháp giảng dạy ca dao- dân ca trong chương trình Ngữ văn lớp 7. IV- phương pháp nghiên cứu (1)- Tìm hiểu bằng cách đọc, nghiên cứu tài liệu về phương pháp giảng dạy tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại. Các bài viết có tính chất khoa học và đã thành giáo trình giảng dạy. (2)- Tham khảo ý kiến cũng như phương pháp giảng dạy các tác phẩm thuộc thể loại trữ tình của đồng nghiệp thông qua các buổi họp chuyên đề, dự giờ thăm lớp. (3)- Lấy thực nghiệm việc giảng dạy văn học ở trên lớp những bài ca dao- dân ca đặc biệt là những bài giàu giá trị nghệ thuật và đánh giá kết quả nhận thức của học sinh, để từ đó tìm hiểu nguyên nhân rút ra hướng rèn luyện học sinh. 3
  4. Phần 2 nội dung I- những điều giáo viên cần nắm vững khi giảng dạy ca dao- dân ca 1. Khái niệm ca dao- dân ca Theo SGK Ngữ văn 7 tập 1 trang 35 đã nêu khái niệm về ca dao- dân ca như sau: - Ca dao- dân ca là tên gọi chung của các thể loại trữ tình dân gian kết hợp lời và nhạc, diễn tả đời sống nội tâm của con người. - SGK cũng phân biệt hai khái niệm ca dao và dân ca + Dân ca là những sáng tác dân gian kết hợp lời và nhạc. + Ca dao là lời thơ của dân ca. 2- Nhìn chung về các loại ca dao - dân ca Lịch sử sinh thành, phát triển của ca dao, dân ca rất lâu dài, phong phú, phạm vi các hiện tượng ca dao dân ca của cộng đồng người Việt nói riêng cũng như các dân tộc nói chung rất rộng lớn, đa dạng. Việc phân loại, phân kì và vùng ca dao - dân ca là biện pháp cần thiết không thể thiếu khi tìm hiểu về ca dao - dân ca. Các thể loại văn học dân gian nói chung cũng như các thể loại ca dao - dân ca nói riêng đều là sản phẩm của lịch sử, gắn bó với đời sống của con người trong những thời gian và không gian nhất định. Do ca dao - dân ca có những đặc điểm tương đồng và khác biệt với nhau nên việc phân loại ca dao - dân ca cũng có những điểm chung, riêng tương ứng. 4
  5. 3- Các loại ca dao và dân ca chủ yếu a, Dân ca (1) Đồng dao (2) Dân ca lao động (3) Dân ca nghi lễ (4) Hát ru (5) Dân ca trữ tình (6) Dân ca trong kịch hát dân gian b, Ca dao (1) Ca dao trẻ em (2) Ca dao lao động (3) Ca dao nghi lễ phong tục (4) Ca dao ru con (5) Ca dao trữ tình (6) Ca dao trào phúng Trong nhà trường THCS - THPT chủ yếu học sinh được học phần lời ca( tức là ca dao) nên đề tài này tôi chủ yếu đề cập đến ca dao. 4- Đặc trưng của ca dao- dân ca 4.1. Hệ đề tài Vì là phần lời của những câu hát dân gian nên ca dao thiên về tình cảm và biểu hiện lòng người, phản ánh tâm tư, tình cảm, thế giới tâm hồn của con người. Thực tại khách quan được phản ánh thông qua tâm trạng con người, nó thể hiện vẻ đẹp trang trọng ngay trong đời thường con người. 4.2. Chức năng Là "tấm gương của tâm hồn dân tộc" là "một trong những dòng chính của thơ ca trữ tình" ( F. Hê ghen). 5
  6. 4.3. Đặc điểm thi pháp a, Ngôn ngữ trong ca dao Nói đến thi pháp ca dao, trước hết phải nói đến phương tiện chủ yếu của ca dao, tức là ngôn ngữ. Bởi vì ca dao là phần lời của dân ca, cái yếu tố nhạc điệu, động tác có vai trò rất quan trọng trong dân ca, còn ở phần lời thơ thì vai trò chủ yếu thuộc về ngôn ngữ, các yếu tố khác đều trở thành thứ yếu. Chính vì vậy mà ca dao có khả năng sống độc lập ngoài ca hát ( tức là ngoài sự diễn xướng tổng hợp của dân ca) và trở thành nguồn thơ trữ tình dân gian truyền thống lâu đời và phong phú nhất của dân tộc. -Ngôn ngữ trong ca dao đậm đà màu sắc địa phương, giản dị, chân thực, hồn nhiên, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Ví dụ như bài ca dao: Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, bát ngát menh mông". Thân em như chẽn lúa đòng đòng Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai ( Trong đó ni= này; tê= kia: tiếng địa phươpng miền trung). - Có nhiều bài ca dao được lan truyền nhanh chóng trở thành tiếng nói riêng của nhân nhiều địa phương khác nhau nhờ sự thay đổi địa danh là chủ yếu. Ví dụ: Đường vô xứ Huế quanh quanh Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ Ai vô xứ Huế thì vô b,Thể thơ trong ca dao Ca dao là phần lời của dân ca, do đó các thể thơ trong ca dao cũng sinh ra từ dân ca. Các thể thơ trong ca dao cũng được dùng trong các loại văn vần dân gian khác (như tục ngữ, câu đố, vè ). Có thể chia các thể thơ trong ca dao thành bốn loại chính là: - Các thể vãn - Thể lục bát - Thể song thất và song thất lục bát - Thể hỗn hợp (hợp thể) 6
  7. Trong SGK Ngữ văn 7 tập I các bài ca dao được đưa vào chủ yếu là thể lục bát (mỗi câu gồm hai dòng hay hai vế, dòng trên sáu âm tiết, dòng dưới tám âm tiết nên được gọi là "thượng lục hạ bát"). Đây cũng là thể thơ sở trường nhất của ca dao. Thể thơ này được phân thành hai loại là lục bát chính thể (hay chính thức) và lục bát biến thể (hay biến thức). ở lục bát chính thể, số âm tiết không thay đổi (6+8), vần gieo ở tiếng thứ sáu (thanh bằng), nhịp thơ phổ biến là nhịp chẵn (2/2/2 ), cũng có thể nhịp thay đổi (3/3 và 4/4). ở lục bát biến thể, số tiếng (âm tiết) trong mỗi vế có thể tăng, giảm (thường dài hơn bình thường). Ví dụ: Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mong bát ngát Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, bát ngát mênh mông. (12 âm tiết). c, Kết cấu của ca dao *Thể cách của ca dao "Phú", "tỉ", "hứng" là ba thể cách của ca dao (cách phô diễn ý tình). - "Phú" ở đây có nghĩa là phô bày, diễn tả một cách trực tiếp, không qua sự so sánh. Ví dụ: Cậu cai nón dấu lông gà, Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai. Ba năm được một chuyến sai, áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê. - "Tỉ" nghĩa là so sánh (bao gồm cả so sánh trực tiếp - tỉ dụ và so sánh gián tiếp - ẩn dụ). Ví dụ: Thân em như trái bần trôi, Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu? - "Hứng" là cảm hứng. Người xưa có câu "Đối cảnh sinh tình". Những bài ca dao trước nói đến "cảnh" (bao gồm cả cảnh vật, sự việc) sau mới bộc lộ "tình" (tình cảm, ý nghĩa, tâm sự) đều được coi là làm theo thể "hứng". Ví dụ: Ngó lên nuộc lạt mái nhà, Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu. * Phương thức thể hiện Những bài ca dao trong SGK Ngữ văn 7 chủ yếu có ba phương thức thể hiện đơn là: 7
  8. - Phương thức đối đáp (đối thoại), chủ yếu là bộ phận lời ca được sáng tác và sử dụng trong hát đối đáp nam nữ, bao gồm cả đối thoại hai vế và một vế. Ví dụ: Đối thoại hai vế: - ở đâu năm cửa nàng ơi Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng? Sông nào bên đục, bên trong? Núi nào thắt cổ bồng mà có thánh sinh? Đền nào thiêng nhất sứ Thanh ở đâu mà lại có thành tiên xây? - Thành Hà Nội năm cửa nàng ơi Sông lục đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng. Nước sông Thương bên đục bên trong, Núi Đức Thánh Tản thắt cổ bồng lại có thánh sinh Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây." - Phương thức trần thuật (hay kể chuyện trữ tình, khác với trần thuật trong các loại tự sự). Ví dụ: Con cò chết rũ trên cây, Cò con mở lịch xem ngày làm ma. Cà cuống uống rượu la đà, Chim ri ríu rít bò ra lấy phần. Chào mào thì đánh trống quân, Chim chích cởi trần, vác mõ đi giao." - Phương thức miêu tả (miêu tả theo cảm hứng trữ tình, khác với miêu tả khách quan trong các thể loại tự sự). Ví dụ: Đường vô xứ Huế quanh quanh, 8